Bản án 24/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 24/2024/HS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2024/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2024/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Phạm Bá M, sinh ngày 27 tháng 7 năm 1991, tại huyện Qu, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Bá T (đã chết) và bà Hà Thị H, sinh năm 1974; bị cáo có vợ là Hà Thị H1, sinh năm 1998 và có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo có sử dụng, nghiện chất ma túy; ngày 18/3/2013 bị Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội áp dụng biện phát đưa vào vào cơ sở chữa bệnh theo Quyết định số: 3143/QĐ-UBND với thời hạn 24 tháng, đến ngày 06/3/2015 chấp hành xong; ngày 10/8/2016 bị Công an huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số: 002025 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ với số tiền là 1.000.000 đồng, đã chấp hành nộp phạt ngày 26/8/2016.

Bị tạm giữ ngày 16/12/2023, chuyển tạm giam ngày 25/12/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Hà Văn M1, sinh ngày 08 tháng 6 năm 2001, tại huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn T1 và bà Phạm Thị D (đều đã chết); bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Bị cáo có sử dụng, nghiện chất ma túy, bị cáo chưa từng bị kết án, xử lý hành chính, xử lý kỷ luật.

Bị tạm giữ ngày 16/12/2023, chuyển tạm giam ngày 25/12/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hà Thị H, sinh năm 1974, nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 16/12/2023, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện Mai Châu chủ trì phối hợp với Công an xã Cun Pheo đang làm nhiệm vụ tại xóm Táu Nà, xã Cun Pheo, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình thì phát hiện Hà Văn M1, sinh năm 2001, nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36H5-120.xx và Phạm Bá M, sinh năm 1991 cùng nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36H5- 121.xx đi theo hướng Cun Pheo – Vạn Mai nên đã yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong lòng bàn tay trái của Phạm Bá M có 01 gói nilon màu trắng bên ngoài được quấn băng dính màu đen, bên trong có 02 gói nilon màu trắng, 01 gói chứa chất bột màu trắng, gói còn lại chứa các viên nén màu hồng. Phạm Bá M khai nhận, đó là gói ma túy mà M và Hà Văn M1 cùng nhau đi mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Bá M, áp dụng Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Hà Văn M1, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định. Tại Cơ quan điều tra Phạm Bá M và Hà Văn M1 khai nhận về nguồn gốc số ma túy như sau: Khoảng 17 giờ ngày 16/12/2023 Phạm Bá M sang nhà Hà Văn M1 và rủ M1 sang huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình chơi, Hà Văn M1 đồng ý. Phạm Bá M điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter màu đỏ đen biển kiểm soát 36H5- 121.xx và Hà Văn M1 điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter màu trắng đen biển kiểm soát 36H5-120.xx đi đến huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, trên đường đi cả hai có thống nhất cùng nhau đi lên xã Hang Kia, huyện Mai Châu để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi cả hai đang điều khiển xe trên đường dân sinh thuộc địa phận xã Hang Kia, huyện Mai Châu thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông đang đi bộ một mình, nên Phạm Bá M và Hà Văn M1 cùng dừng xe lại. Hà Văn M1 đi đến gần và hỏi người đàn ông dân tộc Mông có ma túy bán không thì người đàn ông trả lời là có, nên có hỏi mua ma túy với số tiền 1.000.000 đồng gồm Heroin và hồng phiến. Người đàn ông đi một lúc thì quay lại đưa cho Hà Văn M1 01 gói màu đen bên trong có chứa ma túy, M1 nhận ma túy và đưa cho người đàn ông trên 1.000.000 đồng, sau đó thì Phạm Bá M và Hà Văn M1 quay về. Trên đường về cả hai dừng xe mô tô và lấy một ít ma túy vừa mua được ra cùng nhau sử dụng, sau đó Hà Văn M1 gói ma túy lại và đưa cho Phạm Bá M, Phạm Bá M cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe đi về đến khu vực xóm Táu Nà, xã Cun Pheo, huyện Mai Châu thì bị tổ công tác Công an huyện Mai Châu bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Bản Kết luận giám định số: 08/KL-KTHS ngày 22/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

- Chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu G1 có khối lượng là 3,36 gam, là ma túy, loại Heroine;

- 13 viên nén màu hồng ký hiệu G2 có tổng khối lượng là 1,35 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại Bản Cáo trạng số: 21/CT-VKSMC ngày 22/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố bị cáo Phạm Bá M và Hà Văn M1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết như sau.

Về tội danh, hình phạt:

- Đề nghị tuyên bố bị cáo Phạm Bá M và Hà Văn M1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Bá M từ 44 đến 50 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ.

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Hà Văn M1 từ 42 đến 48 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là người sử dụng nghiện chất ma túy, không có việc làm, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành, nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị tuyên tịch thu toàn bộ số ma túy thu được, sau khi giám định số còn lại đã hoàn trả, để tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 36H5-120.xx, kèm theo chìa khóa xe, kết quả điều tra xác định xe mô tô trên có chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Hà Văn M1, sinh năm 2001, địa chỉ B, xã T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Tuy bị cáo có khai dùng chiếc xe đi mua chất ma túy nhưng hành vi của bị cáo không cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy, mà cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, nên xác định không dùng xe mô tô vào việc phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, hơn nữa tại phiên tòa bị cáo còn khai xe mô tô này là phương tiện đi lại của cả gia đình nên đề nghị trả lại cho bị cáo Hà Văn M1.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 36H5- 121.xx thuộc sở hữu hợp pháp của bà Hà Thị H, sinh năm 1974, nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa là mẹ đẻ của Phạm Bá M. Việc Phạm Bá M sử dụng xe để đi mua ma túy bà H không biết, không liên quan, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Châu trả lại xe cho bà H là có căn cứ và đúng theo quy định của pháp luật. Nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về vấn đề khác:

- Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Phạm Bá M và Hà Văn M1 quá trình điều tra không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, không xác định được là ai nên không có căn cứ đề nghị xử lý.

- Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của các bị cáo: Các bị cáo đã nhận được các văn bản tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, quá trình điều tra, truy tố xét xử các bị cáo đã được phổ biến quyền và nghĩa vụ, không bị ép cung, mớm cung, các bị cáo đồng ý với nội dung Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử không thắc mắc gì, các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, các bị cáo không thuê Luật sư hoặc nhờ trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho mình. Nguyên nhân dẫn đến phạm tội là do các bị cáo nghiện ma túy, tàng trữ để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Hà Thị H có ý kiến: Ngày 16/12/2023, Phạm Bá M đã tự ý lấy chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36H5-121.xx của bà đi đâu, làm gì bà H không biết, bà H không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Phạm Bá M và Hà Văn M1. Hiện tại bà đã được Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Châu trả lại chiếc xe mô tô nói trên và không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Những chứng cứ xác định có tội:

Các bị cáo bị bắt, bị lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, vật chứng thu được, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 16/12/2023, tại xóm Táu Nà, xã Cun Pheo, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, tổ công tác gồm Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện Mai Châu chủ trì phối hợp Công an xã Cun Pheo đã bắt quả tang Phạm Bá M đang tàng trữ 3,36 gam ma túy loại Heroine và 1,35 gam ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng hai chất ma túy thu giữ được của Phạm Bá Minh là 4,71 gam. Kết quả điều tra xác định, số ma túy trên là của Phạm Bá M và Hà Văn M1 cùng nhau đi mua được với một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại khu vực xã Hang Kia, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, mục đích mua về để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không còn mục đích gì khác. Do đó cả hai bị cáo đều phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng khối lượng ma túy bị thu giữ là 4,71 gam theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Chứng cứ xác định không có tội: Không có.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp phòng, chống tiến tới loại trừ tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại rất lớn của nó nhưng do nghiện chất ma túy nên vẫn cố tình tàng trữ chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý Nhà nước về chất ma túy. Trong vụ án này giữa hai bị cáo không có sự câu kết, bàn bạc, phân công, phân nhiệm cụ thể, cùng nhau đi tìm mua ma túy về để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác nên chỉ là đồng phạm giản đơn, không phải là phạm tội có tổ chức.

Trong vụ án này, bị cáo Phạm Bá M là người khởi xướng rủ bị cáo Hà Văn M1 đi mua chất ma túy, Hà Văn M1 là người trực tiếp bỏ ra 1.000.000 đồng để mua ma túy và là người trực tiếp đưa tiền và nhận ma túy từ người đàn ông dân tộc Mông , sau khi mua được ma túy Phạm Bá M là người trực tiếp cầm, tàng trữ.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo Phạm Bá M có ông ngoại là Hà Văn X được Hội đồng Bộ trưởng tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì và Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thưởng Huân chương kháng chiến vẻ vang hạng Ba là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, vai trò của từng bị cáo, nguyên nhân, hậu quả của hành vi phạm tội, tiền án, tiền sự, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của từng bị cáo nêu trên, xét cần xử phạt tù có thời hạn với mức án nghiêm khắc, nhưng phù hợp đối với từng bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, tạm giam sau khi tuyên án và về các vấn đề khác mà đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã có ý kiến đề nghị nêu trên. Xét thấy có căn cứ phù hợp quy định pháp luật cần xử lý, giải quyết theo hướng đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo Phạm Bá M và Hà Văn M1 phải nộp án phí hình sự theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Phạm Bá M và Hà Văn M1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Bá M 44 (bốn mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 16/12/2023.

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hà Văn M1 42 (bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 16/12/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy sau khi giám định còn lại đã hoàn trả, được niêm phong trong 01 phong bì.

- Trả lại cho bị cáo Hà Văn M 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 36H5-120.xx (kèm theo 01 chìa khóa xe).

(Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tình trạng, đặc điểm cụ thể của các vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 29/THA ngày 29/3/2024 giữa bên giao Công an huyện Mai Châu, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu).

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Phạm Bá M và Hà Văn M1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;