Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 17/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 217/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Minh T, sinh năm 2000 tại Gia Lai; nơi cư trú: Tổ 4, phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Thợ nhôm kính; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Công T và bà Nguyễn Thị Lệ K; bị cáo chưa có vợ và con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 13-5-2021, có hành vi cùng đồng phạm gây rối trật tự công cộng, ngày 01-8-2022, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P khởi tố về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự; bị bắt tạm giữ ngày 15-9-2022 hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Nguyễn Thị Lệ K, sinh năm 1975; địa chỉ: Hẻm N, tổ 4, phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Ông Phạm Công T, sinh năm 1971; địa chỉ: Hẻm N, tổ 4, phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Anh Đinh Anh T1, sinh năm 1998; địa chỉ: 36/27 đường P, tổ 6, phường B, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1970; địa chỉ: 132A đường L, tổ 6, phường B, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trên cơ sở kết quả điều tra, xác định được như sau:

Phạm Minh T là người sử dụng ma tuý loại Methamphetamine từ năm 2021. Thông qua bạn bè ngoài xã hội, Phạm Minh T có được số điện thoại của đối tượng nam thanh niên tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy. Vào khoảng 12 giờ ngày 12-9-2022, Phạm Minh T gọi điện thoại cho H, để hỏi mua 2.000.000 đồng ma túy đá, H đồng ý và hẹn gặp nhau tại ngã tư Lâm nghiệp, thuộc phường B, thành phố P để thực hiện việc giao dịch mua bán ma túy với nhau. Sau khi liên lạc với H, Phạm Minh T đi bộ từ nhà ra đường N đón xe thồ của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) đi đến địa điểm đã hẹn. Tại đây, lúc này khoảng 12 giờ 20 phút cùng ngày, Phạm Minh T đã mua của H 2.000.000 đồng được 19 gói ma túy. Sau khi mua được ma túy, Phạm Minh T đón xe thồ (của một người không rõ nhân thân, lai lịch) chở về lại nhà và đã sử dụng hết 1 gói; còn 18 gói, Phạm Minh T cất giấu tại phòng ngủ của Phạm Minh T, mục đích để sử dụng cho bản thân. Đến chiều ngày 14-9-2022, do sợ gia đình phát hiện nên Phạm Minh T đi đến nhà Đinh Anh T1 là bạn của Phạm Minh T để chơi và mang theo toàn bộ số ma túy (trong đó có 17 gói để trong túi vải màu nâu, còn 1 gói để trong người để khi nào cần thì lấy ra sử dụng). Khi đến nhà Đinh Anh T1, Phạm Minh T xin ngủ lại và đã cất giấu túi vải bên trong đựng 17 gói ma túy tại nệm phòng ngủ của Đinh Anh T1. Đến 17 giờ ngày 15-9-2022, khi Phạm Minh T đang đứng ở khu vực sân nhà Đinh Anh T1, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P phối hợp với Công an phường B, tiến hành vào kiểm tra, Phạm Minh T đã lấy gói ma túy từ trong người ra vứt xuống sân tại vị trí Phạm Minh T đứng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 1 gói nilon màu xanh bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể (được niêm phong theo quy định, đánh số I). Trên cơ sở lời khai của Phạm Minh T, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại phòng ngủ của anh Đinh Anh T1, thu giữ vật chứng, gồm: 14 gói nilon màu xanh chứa chất màu trắng dạng tinh thể và 3 gói nilon trong suốt chứa chất màu trắng dạng tinh thể, để bên trong 1 túi vải màu nâu (được niêm phong theo quy định, đánh số II). Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của Phạm Minh T 1 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen, kèm sim số, mặt sau sim có dãy số 8984 04800 03322 04489.

Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Tại Kết luận giám định số 633/KL-KTHS ngày 23-9-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:

“- Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon màu xanh trong bì công văn ghi “I” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1205 gam.

- Chất màu trắng dạng tinh thể trong 17 (mười bảy) gói nilon (14 gói màu xanh và 03 gói trong suốt) trong bì công văn ghi “II” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 4,7142 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Cáo trạng số: 17/CT-VKS ngày 26-12-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Phạm Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phạm Minh T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Minh T với mức án từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu và tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định trong 2 bì công văn số 633/PC09 ngày 23-9-2022, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, được đánh số “I” và “II” (Có các chữ ký Trần Đình N, Hoàng V và Nguyễn Minh T).

Tịch thu, sung quỹ nhà nước 1 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen, kèm sim số, điện thoại nứt màn hình (điện thoại cũ, đã qua sử dụng, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P không kiểm tra tình trạng bên trong) của bị cáo.

Tịch thu và tiêu hủy 1 túi vải màu nâu.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án:

Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và bị cáo rất ăn năn hối hận về việc làm của mình; kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Phạm Minh T phạm tội như sau:

Phạm Minh T là người sử dụng chất ma túy. Vào lúc 12 giờ 20 phút ngày 12-9-2022, tại khu vực ngã tư Lâm nghiệp, phường B, thành phố P, Phạm Minh T đã mua của đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) 19 gói ma túy loại Methamphetamine với giá 2.000.000 đồng, nhằm mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy Phạm Minh T đã sử dụng hết 1 gói, còn 18 gói Phạm Minh T cất giấu để sử dụng dần. Đến chiều ngày 14-9-2022, do sợ gia đình phát hiện nên Phạm Minh T đi đến nhà Đinh Anh T1 để chơi và Phạm Minh T có mang theo 18 gói ma túy nêu trên. Khi đến nhà Đinh Anh T1, Phạm Minh T đã cất giấu 17 gói tại nệm trong phòng ngủ của Đinh Anh T1 và cất trong người 1 gói để khi nào cần thì lấy ra sử dụng. Đến 17 giờ ngày 15-9-2022, khi Phạm Minh T đang ở nhà của Đinh Anh T1 thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an thành phố P phối hợp với Công an phường B, phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng, gồm: 18 gói nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể và 1 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen, kèm sim số.

Hành vi mua, cất giấu 4,8347 gam chất ma túy loại Methamphetamine, với mục đích để sử dụng do bị cáo Phạm Minh T thực hiện đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để nhận thức được tác hại của các chất ma tuý đối với sức khoẻ con người, việc sử dụng các chất ma tuý là nguyên nhân gián tiếp làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, bị cáo cũng biết rõ pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai quyết định truy tố ra trước Tòa án để xét xử đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình với một hình phạt tương xứng.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ thái độ ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ được Hội đồng xét xử áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo có nhân thân xấu.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. [5] Về vật chứng vụ án:

Tịch thu và tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định trong 2 bì công văn số 633/PC09 ngày 23-9-2022, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, được đánh số “I” và “II” (Có các chữ ký Trần Đình N, Hoàng V và Nguyễn Minh T).

Bị cáo đã sử dụng điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen, kèm sim số vào việc liên lạc để mua chất ma túy; vì vậy cần tịch thu, sung quỹ nhà nước chiếc điện thoại này của bị cáo.

Bị cáo đã sử dụng 1 túi vải màu nâu để chứa chất ma tuý, vì vậy cần tịch thu, tiêu huỷ.

[6] Về các vấn đề khác:

Đối tượng tên H là người mà bị cáo khai đã bán chất ma túy cho bị cáo. Do bị cáo không biết được nhân thân, lai lịch của đối tượng H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã tiến hành mở danh bạ, nhật ký cuộc gọi, tin nhắn trong điện thoại đã thu giữ của bị cáo nhưng không xác định được số điện thoại của H và không xác định được nội dung tin nhắn liên quan đến việc mua ma tuý. Đồng thời, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại khu vực ngã tư Lâm nghiệp, phường B, thành phố P, nhưng chưa xác định được đối tượng tên H bán ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Phạm Minh T cất giấu ma tuý trong nhà của ông Phạm Công T, bà Nguyễn Thị Lệ K và trong phòng trọ của anh Đinh Anh T1; ông Phạm Công T, bà Nguyễn Thị Lệ K và anh Đinh Anh T1 không biết nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phạm Minh T.

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phạm Minh T 4 (bốn) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 15-9- 2022.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu và tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định trong 2 bì công văn số 633/PC09 ngày 23-9-2022, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, được đánh số “I” và “II” (Có các chữ ký Trần Đình N, Hoàng V và Nguyễn Minh T).

Tịch thu, sung quỹ nhà nước 1 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen, kèm sim số, điện thoại nứt màn hình (điện thoại cũ, đã qua sử dụng, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P không kiểm tra tình trạng bên trong) của bị cáo.

Tịch thu và tiêu hủy 1 túi vải màu nâu.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27-12-2022 giữa Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P).

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Minh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo, bà Nguyễn Thị Lệ K và ông Phạm Công T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày 17-02-2023. Anh Đinh Anh T1 vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án sơ thẩm được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;