Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 24/2022/HS-ST NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Nam D; tên gọi khác: Không; sinh ngày 22 tháng 8 năm 1977 tại tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Tổ 13, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đăng D (đã chết) con bà Nguyễn Thị S - sinh năm 1951; vợ, con: Chưa có; tiền án: Có 02 tiền án: Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1962/1997/HSPT ngày 21-11-1997 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội xét xử về 03 tội: Giết người; Cướp tài sản của công dân; Cướp giật tài sản của công dân. Tổng hợp hình phạt của cả ba tội là tù chung thân, bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 28-7-2015; tại bản án số 16/2020/HSST ngày 05-5-2020 của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xét xử 1 năm 06 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 18-8-2021(Cả hai bản án đều chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 27-12-2021, tạm giam ngày 29-12- 2021. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Yên Bái. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ iên quan: Anh Hà Ngọc K - sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ 03, phường Đ, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ ngày 27 tháng 12 năm 2021tại khu vực tổ dân phố Cường Bắc, phường Nam Cường, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, tổ công tác Công an thành phố Yên Bái đã phát hiện và kiểm tra Hà Ngọc K, sinh năm 1972, cư trú tại tổ 03, phường Đ, thành phố Y về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma túy, thu giữ: 01 mảnh giấy bạc có số vết mầu đen; 01 điếu thuốc lá Thăng Long phần đầu điếu thuốc rỗng khoảng 1,5cm; 01 bật lửa ga mầu xanh; 01 vỏ đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín một đầu; 01 mảnh giấy có số tự nhiên. Hà Ngọc K khai nhận là người nghiện chất ma túy, số ma túy K vừa sử dụng xong là mua của Lê Nam D vào khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 27-12-2021 với giá 230.000 đồng.

Cùng ngày Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp người và nơi ở của Lê Nam D: Thu giữ tại nơi D đứng và trên người: 01 (một) vỏ kẹo màu xanh-trắng có chữ "YEN HOANG", bên trong có 03 (ba) đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín hai đầu đều nghi chứa chất ma túy (do Lê Nam D thả từ tay trái xuống mặt đường D đang đứng); số tiền 440.000đ (bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) thu giữ tại túi quần bên trong, phía sau bên phải D đang mặc; 01 (một) điện thoại di động màu đen loại bàn phím đã qua sử dụng, mặt trước có chữ Nokia, có số Series: 35521803016080, lắp sim có số thuê bao: 0392.654.155; 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 06 (sáu) điếu thuốc lá chưa sử dụng và 01 (một) bật lửa ga màu tím thu giữ tại túi áo khoác bên trái D đang mặc.

Thu giữ khi khám xét nơi ở: 01 (một) túi nilon màu trắng có khóa kẹp viền màu đỏ, bên trong có: 01 (một) vỏ kẹo màu xanh-trắng có chữ "YEN HOANG", 01 (một) vỏ đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín một đầu và 01 (một) mảnh dao lam đã qua sử dụng.

Tại cơ quan điều tra Lê Nam D khai nhận nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là D mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi địa chỉ vào sáng ngày 27/12/2021 với giá 600.000 đồng, tại khu vực gần cầu Bảo Lương (thuộc tổ 13, phường Yên Ninh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái).

* Tại bản Kết luận giám định số: 40/GĐMT, ngày 02/01/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái kết luận: Chất bột nén màu trắng thu giữ khi khám xét Lê Nam Dcó tổng khối lượng là 0,13gam (không phẩy mười ba gam) gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số:13/CT-VKSTP ngày 08 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái truy tố bị cáo Lê Nam D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Nam D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Nam D từ 02 (hai) năm đến 02 (hai ) năm 06 (sáu) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng và án phí: Giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái, tỉnh Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ và vật chứng của vụ án, do đó, có đủ cơ sở kết luận: Sáng ngày 27-12- 2021 Lê Nam D đã mua 0,13 gam ma túy loại Heroine với giá 600.000 đồng về tàng trữ, mục đích là để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Đây là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Do đó cần đưa bị cáo ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Bị cáo là người có sức khỏe và có đủ năng lực nhận thức để điều chỉnh mọi hành vi hoạt động của bản thân. Bị cáo biết sử dụng ma túy là có ảnh hưởng tới sức khỏe của con người và ma túy là loại hàng nhà nước cấm mua bán, tàng trữ với bất kỳ hình thức nào đều bị xử lý theo quy định của pháp luật, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Năm 1997 bị cáo bị Tòa án nhân dân tối cao xét xử về ba tội: “Giết người”; “Cướp tài sản của công dân”; “ Cướp giật tài sản của công dân”, Tổng hợp hình phạt chung cho cả ba tội là tù chung thân, quá trình cải tạo bị cáo được giảm án xuống còn 20 năm. Tháng 5 năm 2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản, cả hai bản án đều chưa được xóa án tích. Khi trở về địa phương bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân trở thành người công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội, thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém. Do đó, cần có một mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục cải tạo bị cáo và phòng chống tội phạm nói chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có hai tiền án chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự để Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, nghiện chất ma túy, nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với Hà Văn K có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, cơ quan điều tra xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

[8] Đối với việc Hà Ngọc K khai báo 02 lần mua ma túy của Lê Nam D vào ngày 26, 27 -12-2021 quá trình điều tra không đủ căn cứ để chứng minh Lê Nam D có hành vi bán trái phép ma túy cho K, nên không xử lý là phù hợp.

[9] Đối với nguồn gốc số ma túy mà bị cáo khai mua của một người đàn ông vào sáng ngày 27/12/2021tại khu vực gần cầu Bảo Lương (thuộc tổ 13, phường Yên Ninh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái). Do bị cáo không biết tên, tuổi địa chỉ, nên không có cơ sở để xử lý.

[10] Về vật chứng:

- Đối với 0,08gam, trích từ 0,13 gam ma túy loại Heroine thu giữ của Lê Nam D, Cơ quan giám định đã sử dụng vào việc giám định không hoàn lại mẫu vật, Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

- Đối với số ma tuý loại Heroine thu giữ của Lê Nam D sau khi đã lấy mẫu giám định còn lại 0,05 gam được niêm phong trong phong bì niêm phong vật chứng mặt trước phong bì có ghi “Vật chứng thu giữ khi khám xét Lê Nam D ngày 27-12-2021 (sau khi trích mẫu giám định)”; 02 vỏ phong bì đã mở niêm phong, 01 vỏ kẹo và 03 doạn ồng nhựa mầu trắng; 01 mảnh giấy bạc có vết mầu đen, 01 điếu thuốc la Thăng Long có phần đầu thuốc lá bị rỗng khoảng 1,5cm;

01 bật lửa ga mầu xanh; 01 vỏ đoạn ống nhựa mầu trắng hàn kín một đầu và 01 mảnh giấy có chữ và số tự nhiên; 01 bao thuốc lá mầu vàng có chữ “THĂNG LONG” bên trong có 06 điều thuốc lá chưa sử dụng; 01 bật lửa ga mầu tím; 01 túi nilon mầu trắng có khóa kẹp viền màu đỏ, bên trong có một vỏ kẹo màu xanh-trắng có chữ “YEN HOANG”; 01 vỏ đoạn ông nhựa mầu trắng hàn kín một đầu; 01 mảnh dao lam đã qua sử dụng. Đây là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy, - Đối với 01 chiếc điện thoại di động màu đen đã qua sử dụng mặt trước có chữ NOKIA, số sê ri: 355218030160807, lắp sim số 0392.654.155 và 440.000 đồng là tài sản của bị cáo, không liên quan đến tội phạm, do đó, cần trả lại cho bị cáo.

[11] Về án phí: Bị cáo Lê Nam D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Nam D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Nam D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 27 tháng 12 năm 2021.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,05 gam ma túy loại Heroine được niêm phong trong phong bì niêm phong vật chứng mặt trước phong bì có ghi “Vật chứng thu giữ khi khám xét Lê Nam D ngày 27-12-2021 (sau khi trích mẫu giám định” mặt sau dán kín có các chữ ký của các thành viên tham gia niêm phong và 04 hình dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái; 02 vỏ phong bì đã mở niêm phong, 01 vỏ kẹo và 03 đoạn ống nhựa mầu trắng; 01 mảnh giấy bạc có vết mầu đen, 01 điếu thuốc lá Thăng Long có phần đầu thuốc lá bị rỗng khoảng 1,5cm; 01 bật lửa ga mầu xanh; 01 vỏ đoạn ống nhựa mầu trắng hàn kín một đầu và 01 mảnh giấy có chữ và số tự nhiên; 01 bao thuốc lá mầu vàng có chữ “THĂNG LONG” bên trong có 06 điếu thuốc lá chưa sử dụng; 01 bật lửa ga mầu tím; 01 túi nilon mầu trắng có khóa kẹp viền màu đỏ, bên trong có một vỏ kẹo màu xanh-trắng có chữ “YEN HOANG”; 01 vỏ đoạn ống nhựa mầu trắng hàn kín một đầu; 01 mảnh dao lam đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo: 01 chiếc điện thoại di động màu đen đã qua sử dụng mặt trước có chữ NOKIA, số sê ri: 355218030160807, lắp sim số 0392.654.155 và 440.000 đồng (bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) đựng trong phong bì mặt trước phong bì có ghi “ Tiền thu giữ khám xét Lê Nam Dngày 27-12-2021 (sau khi giám định) mặt sau dán kín có các chữ ký của các thành viên tham gia niêm phong và các dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái.

(Vật chứn có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra thành phố Yên Bái và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Yên Bái ngày 09-3-2022).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Nam D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2022/HS-ST

Số hiệu:24/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;