Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG XƯƠNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 24/2022/HS-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/QĐXXST-HS ngày 28/3/2022, đối với bị cáo:

Lê Văn Bảo - Sinh năm 1984 Nơi cư trú:Thôn K, xã N, huyện Q, tỉnh Thanh Hoá; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Văn T (đã chết) và bà Trần Thị N, Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không.

Tiền sự: 01. Ngày 12/7/2018, Lê Văn B bị công an huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã NS), tỉnh Thanh Hóa xử phạt 1.500.000đ về hành vi “ Trộm cắp tài sản” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 137/QĐ-XLVPHC. Hiện Lê Văn B chưa nộp tiền phạt.

Nhân thân:

- Tại Bản án số 292/2009/HSST ngày 28/04/2009 của TAND quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt Lê Văn B 24 tháng tù, 50.000đ án phí HSST về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bảo chấp hành xong án phạt tù ngày 09/01/2011, chấp hành xong án phí HSST ngày 12/4/2012.

- Tại quyết định số 2433/QĐ-UBND ngày 06/9/2013 của UBND huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Lê Văn B, Ngày 22/5/2015 Bảo chấp hành xong.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bùi Văn Đ, sinh năm 1997 (vắng mặt) Nơi cư trú: TDP ĐĐ2, TT TP, huyện Q, Thanh Hoá.

2. Bùi Huy H, sinh năm 1979 (vắng mặt) Nơi cư trú: Phố 1, TT TP, huyện Q, Thanh Hoá.

3. Đoàn Văn B, sinh năm 1977 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn TĐ 1, xã Đ, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá.

4. Nguyễn Văn H2, sinh năm 1984 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn K, xã Quảng Ng, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá.

5. Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1984 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 5, xã Nh, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá.

6. Nguyễn Đức H3, sinh năm 1977 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn NL, xã L, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá.

7. Vũ Quốc T, sinh năm 1983 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn ND 2, xã C, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá.

8. Nguyễn Quang H4, sinh năm 1986 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn TX, xã C, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 06h30 ngày 12/10/2021 tại khu vực trước cổng Trung tâm điều trị Methadone huyện Quảng Xương thuộc tổ dân phố TP, TT. TPh, Quảng Xương, Thanh Hoá, tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về ma tuý Công an huyện Quảng Xương phối hợp cùng Phòng PC04 Công an tỉnh Thanh Hoá và Công an TT TP phát hiện, bắt quả tang Lê Văn B đang tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Tại chỗ, lực lượng công an thu giữ trên tay trái của Bảo 01 túi nilon màu trắng trong suốt, miệng viền đỏ, kích thước khoảng (12x7) cm, bên trong đựng 03 gói giấy trắng, bên ngoài bọc nilon đen, đều có kích thước khoảng (2x1)cm, bên trong mỗi gói chứa chất rắn màu trắng dạng cục (được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu M);

thu giữ trên tay trái của Nguyễn Văn H2 SN1984 ở thôn K, Quảng Ng, Quảng Xương 01 gói nilon đen, kích thước khoảng (2x1)cm, bên trong chứa chất rắn màu trắng dạng cục (được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu M1);

thu giữ trên tay trái của Đoàn Văn B SN1977 ở thôn Thượng Đình 1, Quảng Định, Quảng Xương 01 gói nilon gói giấy trắng, bên ngoài bọc nilon đen, kích thước khoảng (2x1)cm, bên trong chứa chất rắn màu trắng dạng cục (được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu M2);

thu giữ của Bảo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, bàn phím bấm, lắp sim số 0977661808; 01 xe mô tô dán nhãn Honda Sufat, lắp BKS: 36N9 – 2831. (BL:01-04; 36-38) Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Văn B tại thôn K, Quảng Ng, Quảng Xương, Thanh Hoá, lực lượng công an không phát hiện thu giữ gì. (BL: 32-35) Tại bản kết luận giám định số 3619/PC09 ngày 15/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: (BL: 42-43) - Chất rắn màu trắng dạng cục của phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma tủy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,390g (không phẩy ba chín không gam) loại: Heroine.

- Chất rắn màu trắng dạng cục của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,033g (không phẩy không ba ba gam) loại: Heroine.

- Chất rắn màu trắng dạng cục của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi - giám định là ma túy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,078g (không phẩy không bảy tám gam) loại: Heroine Quá trình điều tra xác định:

Khoảng 06 giờ ngày 12/10/2021, Lê Văn B một mình đi xe mô tô hiệu Honda Sufat, BKS: 36N9-2831 từ nhà đến Trung tâm điều trị Methadone huyện Quảng Xương để uống thuốc Methadone. Biết Bảo thường lên thành phố Thanh Hoá mua heroine về sử dụng nên một số đối tượng nghiện đã gửi tiền cho Bảo nhờ mua giúp heroine, trong đó có 08 đối tượng đã xác định rõ danh tính gồm: Bùi Văn Đ sinh năm 1997 ở tổ dân phố ĐĐ2, TT TP, Quảng Xương, Thanh Hoá; Bùi Huy H sinh năm 1979 ở khu phố 1, TT TP, Quảng Xương, Thanh Hoá; Đoàn Văn B sinh năm 1977 ở thôn Thượng Đình 1, Quảng Định, Quảng Xương, Thanh Hoá; Nguyễn Văn H2 sinh năm 1984 ở thôn K, Quảng Ng, Quảng Xương, Thanh Hoá; Nguyễn Văn Ng sinh năm 1984 ở thôn 5, Quảng Nh, Quảng Xương, Thanh Hoá; Nguyễn Đức H3 sinh năm 1977 ở thôn NL, L, Quảng Xương, Thanh Hoá; Vũ Quốc T sinh năm 1983 ở thôn ND 2, C, Quảng Xương, Thanh Hoá; Nguyễn Quang H4 sinh năm 1986 ở thôn TX, C, Quảng Xương, Thanh Hoá. Ngoài ra, một số người nghiện khác gửi tiền nhờ Bảo mua giúp heroine nhưng Bảo không quen biết (không nhớ tên và đặc điểm). Mỗi người đều gửi Bảo số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Tổng số tiền các đối tượng nghiện gửi Bảo mua ma tuý là 1.500.000đ và Bảo có 200.000đ, tổng cộng 1.700.000đ (một triệu bảy trăm nghìn đồng). Sau đó Bảo một mình đi xe mô tô đến ngã ba đường tránh thuộc phường Quảng Thịnh, TP Thanh Hóa rồi dùng điện thoại lắp sim số 0977661808 gọi cho Nguyễn Văn Hiếu SN 2001 ở thôn Hợp Nhất, xã Phú Lâm, TX. NS, Thanh Hoá để hỏi mua 09 gói heroine của Hiếu với giá 1.700.000đ. Hiếu đồng ý và hẹn Bảo chờ tại ngã tư Bệnh viện Nhi thuộc phường Đông Vệ, TP. Thanh Hoá. Tại điểm hẹn Bảo gặp Nguyễn Văn Cường SN1997 ở khu phố NT, P. HN, TX. NS, Thanh Hoá đi xe mô tô hiệu Yamaha Exciter chở theo Hiếu đến bán ma tuý cho Bảo. Hiếu nhận số tiền 1.700.000đ từ Bảo rồi Hiếu đưa cho Bảo 09 gói heroine. Sau đó, Bảo mang 09 gói heroine trở về Trung tâm điều trị Methadone huyện Quảng Xương và chia số gói heroine vừa mua được cho những người đã gửi tiền cho Bảo. Bảo đã phân phát được 06 gói heroine, trong đó có Nguyễn Văn H2 và Đoàn Văn B, mỗi người đã nhận từ Bảo 01 gói heroine, còn lại số đối tượng đã nhận 04 gói heroine từ Bảo, Cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ xác minh danh tính vì Bảo không quen biết và không nhớ đặc điểm. Khi bắt quả tang, Cơ quan CSĐT cũng không thu giữ được 04 gói heroine mà Bảo đã đưa cho các đối tượng này mà chỉ thu giữ của Bảo 03 gói heroine, thu giữ của Đoàn Văn B 01 gói heroine, thu giữ của Nguyễn Văn H2 01 gói heroine.

Đối với Bùi Văn Đ, Bùi Huy H, Nguyễn Văn Ng, Nguyễn Đức H3, Vũ Quốc T, Nguyễn Quang H4 là các đối tượng đã gửi tiền mua ma tuý cho Bảo trước đó, tuy nhiên chưa nhận được ma tuý từ Bảo thì Bảo đã bị bắt quả tang.

Như vậy, Lê Văn B phải chịu trách nhiệm về hành vi tàng trữ đối với 0,390g heroine cơ quan điều tra đã thu giữ của Bảo và 0,033g heroine Bảo đã đưa cho Nguyễn Văn H2 cùng 0,078g heroine Bảo đã đưa cho Đoàn Văn B. Tổng khối lượng heroine Bảo phải chịu trách nhiệm là 0,501 gam.

Toàn bộ vật chứng là số Heroine trong phong phì ký hiệu M, M1, M2 còn lại sau giám định được chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Quảng Xương.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, bàn phím bấm, lắp sim số 0977661808 và 01 xe mô tô dán nhãn Honda Sufat, lắp BKS: 36N9 – 2831 của Lê Văn B là công cụ, phương tiện được Bảo sử dụng mua ma tuý cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với hành vi tàng trữ 0,033g ma túy loại heroine của Nguyễn Văn H2 và hành vi tàng trữ 0,078g ma túy loại heroine của Đoàn Văn B là chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự. Huy và Bình chưa có tiền về hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy nên không cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cơ quan Công an huyện Quảng Xương đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Huy và Bình.

Đối với các đối tượng gồm Bùi Văn Đ, Vũ Quốc T, Bùi Huy H, Nguyễn Văn Ng, Nguyễn Quang H4, Nguyễn Đức H3 đã gửi tiền cho Bảo nhờ mua ma tuý giúp, do những đối tượng trên chưa nhận được ma tuý từ Bảo và không có cơ sở xác định cụ thể lượng ma tuý mà mỗi đối tượng nhờ Bảo mua giúp. Vì vậy, không đủ căn cứ để xem xét xử lý hình sự.

Đối với hành vi bán ma túy cho Lê Văn B vào khoảng 6h ngày 12/10/2021 tại khu vực ngã tư Bệnh viện Nhi Thanh Hóa thuộc phường Đông Vệ, TP. Thanh Hoá của Nguyễn Văn Hiếu và Nguyễn Văn Cường, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Hiếu và Cường về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Sau đó Cơ quan CSĐT Công an tỉnh đã chuyển hồ sơ cho Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.

Tại bản cáo trạng số 49/Ctr-VKSQX ngày 17/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương truy tố bị cáo Lê Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo B từ 24 đến 28 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tình từ ngày tạm giữ 12/10/2021.

Về tang vật: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS, đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số vật chứng ma túy còn lại sau giám định: 0,433g heroin. Tịch thu xung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, bàn phím bấm, lắp sim 0977661808 và 01 xe mô tô dán nhãn Honda Sufat, lắp BKS 36N9-2831 của Lê Văn B là công cụ phương tiện phạm tội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tự bào chữa và tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận: Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 12/10/2021 tại khu vực trước cổng Trung tâm điều trị Methedone huyện Quảng Xương, Lê Văn B có hành vi tàng trữ 0,501g Heroin. Trong đó, bị cáo cầm trên tay 0,390g heroin và đã đưa cho Nguyễn Văn H2 0,033g heroin, đưa cho Đoàn Văn B 0,078g heroin thì bị công an huyện Quảng Xương bắt quả tang. Số heroin bị cáo đưa cho Huy và Bình là do Huy và Bình gửi tiền nhờ bị cáo đi mua hộ.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 6 giờ 45 phút ngày 12/10/2021 tại khu vực Trung tâm điều trị Methadone Quảng Xương; phù hợp với kết luận giám định số 3169/PC09 ngày 15 tháng 10 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thanh Hóa; phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án; Phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa. Quyết định truy tố của VKSND huyện Quảng Xương và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Lê Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm:

Hành vi tàng trữ phép 0,501g Heroin của Lê Văn B là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước và gây mất trật tự trị an xã hội.

Heroin là ma túy tổng hợp rất độc hại, có khả năng gây nghiện rất nhanh, khiến người nghiện bị suy sụp nhanh chóng về thể xác lẫn tinh thần. Khi không có ma túy để sử dụng, người nghiện sẽ lên cơn vật vã, đau đớn có thể làm mọi việc bất chấp vi phạm pháp luật để có tiền mua ma túy sử dụng. Chính vì vậy, nhà nước ta độc quyền quản lý chất ma túy, mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đều bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Trung tâm điều trị Methadone là nơi cấp phát thuốc và điều trị cho người nghiện bằng thuốc thay thế Methadone giúp người nghiện cai ma túy.

Tuy nhiên, bị cáo lại nhận mua hộ ma túy cho các đối tượng nghiện và ngang nghiên đến trước cổng Trung tâm điều trị Methadone huyện Quảng Xương để phân phát cho các đối tượng nghiện. Thể hiện việc coi thường pháp luật, đi ngược lại đường lối chính sách của Đảng, dẫn đến gia tăng tệ nạn ma túy, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân.

Vì vậy, cần phải xử bị cáo mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội để răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời phòng ngừa chung tệ nạn ma tuý trong xã hội. [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành công dân tốt.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

- Ngày 12/7/2018, Lê Văn B bị công an huyện TG (nay là thị xã NS), tỉnh Thanh Hóa xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 137/QĐ-XLVPHC. Hiện Lê Văn B chưa nộp tiền phạt.

- Ngày 28/04/2009 bị cáo bị TAND quận HM, thành phố HN xử phạt Lê Văn B 24 tháng tù, 50.000đ án phí HSST về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bảo chấp hành xong án phạt tù ngày 09/01/2011, chấp hành xong án phí HSST ngày 12/4/2012.

- Ngày 06/9/2013 bị cáo bị UBND huyện LN, Bình phước áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 22/5/2015 Bảo chấp hành xong.

Đã nhiều lần bị cơ quan nhà nước xử phạt về hành vi vi phạm pháp luật, nhưng Lê Văn B không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Căn cứ tính chất mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo, HĐXX xét thấy cần thiết phải xử phạt tù bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định "Người phạm tội còn có thể phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản, do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Toàn bộ số vật chứng còn lại sau giám định gồm: 0,433 gam Heroin là chất Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy.

01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, bàn phím bấm, lắp sim 0977661808 và 01 xe mô tô dán nhãn Honda Sufat, lắp BKS 36N9-2831 của Lê Văn B là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tịch thu xung quỹ nhà nước.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

Điểm a khoản 1 Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Mục 1 phần I, Điểm b Tiểu mục 1.3 Mục 1 phần II Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Lê Văn B 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/10/2021.

Về vật chứng:

Tịch thu tiêu huỷ 0,433g heroin còn lại sau giám định.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen, bàn phím bấm, lắp sim số 0977661808 và 01 chiếc mô tô dán nhãn Honda Sunfat màu đỏ đen, lắp BKS 36N-2831.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quảng Xương theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/4/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Quảng Xương và Chi cục thi hành án dân sự huyện Quảng Xương.

Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn B phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

395
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2022/HS-ST

Số hiệu:24/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Xương - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;