Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA.

BẢN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 24/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 2 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Giàng A S, sinh 12/3/1982; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản G, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Chưa qua đào tạo; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Giàng A T (đã chết) và bà Mùa Thị L; bị cáo có vợ Sùng Thị D, sinh 1982 và 04 con, con lớn nhất sinh 2000, con nhỏ nhất sinh 2008; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2021 đến nay; có mặt tại phiên toà.

2. Lò Văn K, sinh 02/8/1985; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản M, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: lớp 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Lò Văn O (đã chết) và Lò Thị H (đã chết); bị cáo có vợ Lò Thị L, sinh 1985 và 03 con, con lớn nhất sinh 2005, con nhỏ nhất sinh 2011; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: ngày 23/10/2007 bị Toà án nhân dân huyện M, xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xoá án tích; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2021 đến nay; có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo S: Ông Nguyễn Phương V, là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo K: Ông Đỗ Văn Th, là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người phiên dịch: Vàng Thị D, nơi cư trú: Tiểu khu 3, thị trấn I, huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 27/8/2021 Lò Văn K đến nhà Giàng A S ở bản G, xã N, huyện M; gặp Súa, Ky hỏi “có hồng phiến bán không? S hỏi lại “lấy bao nhiêu, để tìm xem”, K nói “mua 200.000VNĐ” đồng thời đưa tiền, S nhận tiền rồi lấy ra 01 túi nilon màu xanh bên trong có các viên nén hình tròn màu hồng, S lấy 07 viên gói vào mảnh nilon màu trắng đưa cho K, số còn lại S mang cất giữ tại khu nhà bếp thì bị Tổ công tác Công an huyện M và Công an xã N phát hiện, Lò Văn K đã giao nộp gói nilon màu trắng và khai nhận đó là gói ma tuý vừa mua được của S. Thấy vậy, S đã tự giao nộp số tiền 200.000VNĐ. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 20 giờ 10 phút, tiến hành niêm phong vật chứng. Cùng ngày tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của S thu giữ 01 túi nilon màu xanh bên trong có 51 viên nén hình tròn màu hồng.

Giàng A S khai về nguồn gốc ma tuý có được từ ngày 25/8/2021 S gặp và mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ với số tiền 650.000VNĐ được 58 viên về cất giữ mục đích bán kiếm lời.

Ngày 02/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn K và Giàng A S như sau:

07 viên nén màu hồng trong gói nilon màu trắng thu giữ với Lò Văn K có khối lượng: 0,75 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là K.

51 viên nén màu hồng trong túi nilon màu xanh thu giữ với Giàng A S có khối lượng: 5,41 gam, lấy 05 viên có khối lượng 0,50 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu là S, còn lại 46 viên có khối lượng 4,91 gam ký hiệu S1 niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Còn lại: 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 túi nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu trắng niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 30/8/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện thực hiện trưng cầu giám định số tiền 200.000VNĐ thu giữ của Giàng A S.

Ngày 31/8/2021 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kêt luân giám định số: 1470, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu K và S đều là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là K= 0,75 gam; S= 0,50 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 6,16 gam; loại Methamphetamine”.

Ngày 09/9/2021 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kêt luân giám định số 1511, Kết luận: Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật.

Tiến hành xác minh đối với người bán trái phép chất ma túy cho Giàng A S nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của Súa.

Bản cáo trạng số 94/CT-VKS-ML ngày 26/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Giàng A S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Lò Văn K về tội “Tàng trữ phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Giàng A S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội với mục đích mua ma túy cất giữ bán cho người khác kiếm lời thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà bị cáo Lò Văn K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đó là do nghiện ma túy nên đã mua ma túy cất giữ, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Giàng A S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tuyến bố bị cáo Lò Văn K phạm tội “Tàng trữ phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Giàng A S từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm 06 tháng tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn K từ 20 tháng đến 26 tháng tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ: 4,91 gam Methamphetamine ký hiệu là S1; 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 túi nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu trắng. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000VNĐ của Giàng A S. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho các bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo S tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật rất hạn chế; bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; cho bị cáo hưởng mức hình phạt 08 năm tù là phù hợp, không phạt bổ sung với bị cáo; đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; miễn tiền án phí cho bị cáo; các nội dung khác nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo K tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật rất hạn chế; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xét giảm hình phạt ở mức 16 đến 18 tháng, cho phù hợp với khối lượng chất ma tuý bị cáo tàng trữ để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình, xã hội; đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo S bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.

Bị cáo K bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà là thống nhất, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét khẩn cấp, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Giàng A S đã cất giấu, cất giữ trái phép chất ma túy tại nhà của mình ở bản G, xã N với mục đích để bán kiếm lời, thực tế khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 27/8/2021 Lò Văn K đến nhà bị cáo Giàng A S, K hỏi “có hồng phiến bán không? S hỏi lại “lấy bao nhiêu, để tìm xem”, K nói “mua 200.000VNĐ” đồng thời đưa tiền, S nhận tiền rồi lấy ra 01 gói nilon màu xanh bên trong có các viên nén hình tròn màu hồng, S lấy 07 viên gói vào mảnh nilon màu trắng đưa cho K, số còn lại S mang cất giữ tại khu nhà bếp thì bị Tổ công tác Công an huyện M và Công an xã N phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ với Lò Văn K 07 viên nén màu hồng, thu giữ với Giàng A S số tiền 200.000VNĐ; tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Giàng A S thu giữ 51 viên màu hồng còn lại. Tại kết luận giám định số 1470, ngày 31/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu K và S đều là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là K= 0,75 gam; S= 0,50 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 6,16 gam; loại Methamphetamine”. Như vậy, Giàng A S và Lò Văn K là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, Lò Văn K đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ trái phép 0,75 gam chất ma túy để sử dụng cho bản thân, còn Giàng A S đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ trái phép tổng 6,16 gam chất ma túy và bán trái phép chất ma tuý cho Ky 01 lần để kiếm lời là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Bị cáo Giàng A S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, … có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

Bị cáo Lò Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi: các bị cáo đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, vì nghiện ma túy và vụ lợi các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tội phạm các bị cáo thực hiện là độc lập nhưng có mối quan hệ nhân quả với nhau, trong đó Giàng A S là người vừa cất giấu, cất giữ, vừa bán trái phép chất ma túy một lần cho K nhằm mục đích tư lợi cá nhân, kiếm lời; còn Lò Văn K dùng tiền mua và cất giữ trái phép ma túy để sử dụng là tiếp tay cho hành vi phạm tội của S. Hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; hành vi phạm tội của K là nghiêm trọng, còn hành vi phạm tội của S là rất nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương mà còn là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết các bị cáo phạm tội và đề nghị phạt tù đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: các bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: các bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt). Do đó, xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, sống ở vùng ba, nhận thức pháp luật hạn chế, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: bị cáo K có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy); bị cáo S không có tiền án, tiền sự nhưng chính quyền địa phương xác định các bị cáo không chấp hành quy định của địa phương, không có khả năng tự cải tạo nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa xác định: các bị cáo không có tài sản giá trị nên không phạt bổ sung, phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam các bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; thời gian các bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[9] Đối với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo S, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của bị cáo Súa nên không có cơ sở chứng minh, xử lý theo vụ án.

[10] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 1,25 gam Methamphetamine không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.

Hiện đang lưu kho vật chứng: 4,91 gam Methamphetamine ký hiệu S1 thu giữ của Giàng A S còn lại là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 túi nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu trắng, bị cáo S và K đã sử dụng làm phương tiện cất giữ trái phép chất ma tuý là vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 200.000VNĐ bị cáo Súa đã bán bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn K có được là số tiền do phạm tội mà có, nên cần phải tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[11] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Giàng A S.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lò Văn K.

1. Tuyên bố: Bị cáo Giàng A S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

bị cáo Lò Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt:

Bị cáo Giàng A S 08 (Tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, giam (28/8/2021); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Lò Văn K 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, giam (28/8/2021); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy: 4,91 gam Methamphetamine ký hiệu S1; 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 túi nilon màu xanh của Giàng A S; 01 mảnh nilon màu trắng của Lò Văn K.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000VNĐ (Hai trăm nghìn đồng) của Giàng A S.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/12/2021 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Giàng A S và Lò Văn K.

5. Về quyền kháng cáo: các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/12/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2021/HS-ST

Số hiệu:24/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;