Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 24/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 17/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2021/TLST-HS ngày 29/4/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXXST-HS ngày 03/6/2021 đối với bị cáo:

Chá Văn V . Sinh năm: 1976. Quê quán: Xã P, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Bản P, xã Q, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Bố: Chá Nhia S (đã chết), mẹ: Thao Chá M ; sinh năm: 1922. Vợ: Thao Thị D ; sinh năm: 1978, Có 07 (bảy) người con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2006, hiện đang cư trú tại Bản P, xã Q, huyện Mường Lát.

Tiền án; Tiền sự: Không.

Nhân thân bị cáo: Ngày 27/8/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Lát tuyên phạt 24 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã xóa án tích.

Bị tạm giữ ngày 28/01/2021, chuyển tạm giam ngày 03/02/2021 tại nhà tạm giữ Công an huyện Mường Lát, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hà Văn K - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý số 1, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ, ngày 25/01/2021, bị cáo từ nhà đi bộ lên bản Pù Quăn, Xã P, huyện Mường Lát để tìm mua ma túy sử dụng, đến nơi bị cáo không mua được ma túy nên đến bản Pù Ngùa, Xã P, huyện Mường Lát, bị cáo gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, hỏi và mua được 02 (hai) loại ma túy là Hồng phiến (ma túy tổng hợp) và Heroine với giá 200.000 đồng, bị cáo không kiểm tra số lượng ma túy mà mang ra một ít Heroine và 01 (một) viên hồng phiến để sử dụng, số còn lại cất giấu trong người mang về nhà để sử dụng dần, đến tối bị cáo lấy số ma túy mua được chia ra thành 02 (hai) gói là hồng phiến cho riêng vào một gói nilon màu xanh và Heroine gói riêng vào túi nilon màu trắng rồi cất số ma túy trên giường ngủ nhà mình.

Khoảng 20 giờ ngày 26/01/2021 thì có Hà Văn C , sinh năm 1970, trú khu phố Tén Tằn, thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát đến nhà chơi hỏi mua cây chít, sau đó lại hỏi mua ma túy, nhưng bị cáo nói không có ma túy bán, người tên C vẫn ngồi chơi trong nhà, một lúc sau Công an huyện Mường Lát vào nhà kiểm tra, bị cáo sợ quá nên lấy túi ma túy chứa loại Hồng phiến ném về phía chân giường nhà bếp, nhưng đã bị phát hiện, tổ công tác tiếp tục kiểm tra thì phát hiện thêm trên giường ngủ của bị cáo ở gian nhà chính một túi nilon màu trắng, bên trong chứa Heroine, số hồng phiến trong gói nilon màu trắng gồm 27 (hai bảy) viên, trong đó 25 (hai năm) viên màu hồng và 02 (hai) viên màu xanh.

Tại bản kết luận giám định số: 681/PC09 ngày 01/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

“25 (hai năm) viên nén màu hồng, hình trụ tròn, trên bề mặt mỗi viên có dập chìm chữ “WY” của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,498g (hai phẩy bốn chín tám gam), loại Methamphetamine.

- 02 (hai) viên nén màu xanh, hình trụ tròn, trên bề mặt mỗi viên có dập chìm chữ “A” của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,201 (không phẩy hai không một gam), loại: Methamphetamine.

- 01 (một) cục dạng nén, màu trắng ngà của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,199g (không phẩy một chín chín gam), loại: Heroine”.

Bản cáo trạng số 22/CT-VKS-MT ngày 28/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại Điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tranh luận và luận tội: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo khẳng định không ai súi dục hay ép buộc nhận tội thay người khác; Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy

Về điều luật: Áp dụng: Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS;

Về hình phạt:

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo từ 28 đến 32 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo làm trồng trọt, thu nhập thấp nên không có tính khả thi.

Về vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, là hộ nghèo nên được miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình, bị cáo khai, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy trái phép để sử dụng là vi phạm pháp luật và bị Nhà Nước nghiêm cấm nhưng do bản thân bị nghiện chất ma túy, không kìm chế được bản thân nên đã cố tình phạm tội. Bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.

Ý kiến người bào chữa: Người bào chữa đồng tình với quan điểm truy tố của VKS về tội danh, điều luật áp dụng và khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Người bào chữa cho rằng: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn, là hộ nghèo nên đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án từ 26 đến 28 tháng tù, tạo điều kiện để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình và xã hội, bản thân trở thành công dân có ích. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn án phí cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội, đồng tình với lời bào chữa, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo và bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định bị cáo tàng trữ 02 loại ma túy có tổng khối lượng là 2,898 gam, gồm 0,199 gam Heroine và 2,699 gam Methamphetamine, đã cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại Bộ luật hình sự Nước CHXHCNVN. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túycủa Nhà Nước. Hiện nay ma túy đang trở thành hiểm họa lớn cho toàn xã hội về tác hại của nó, ma tuý là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Với hành vi, tính chất vụ án, năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS nhưng có nhân thân xấu, ngày 27/8/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Lát tuyên phạt 24 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy hiện nay đã được xóa án tích. Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

Với các tình tiết này HĐXX xem xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[4] Xét về hình phạt:

Hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt cho bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội và khối lượng chất ma túy thu giữ, đã đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo làm trồng trọt thu nhập không ổn định, gia đình là hộ nghèo. HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Xét về vật chứng trong vụ án:

Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước Việt Nam cấm lưu hành, cần tịch thu, tiêu hủy.

Tang vật của vụ án hiện đang được bảo quản tại kho tang vật Chi cục THADS huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.

[6] Xét về phần án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo được miễn án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Các nhận định khác:

Đối với người đàn ông ở khu vực bản Pù Ngùa, Xã P, huyện Mường Lát bán ma túy bị cáo chỉ biết là người dân tộc Mông, ngoài ra không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể, việc mua bán giữa hai người cũng không ai biết nên Cơ quan CSĐT không có cơ sở để xác minh, xử lý.

Đối với Thao Thị D , sinh năm 1978, trú Bản P, xã Q, huyện Mường Lát (là vợ của V ), D khai không biết là chồng mang ma túy về nhà cất giấu, cũng không được V nói cho biết, đến khi bị bắt thì mới biết nên không có cơ sở để xử lý đối với D .

Còn đối với Hà Văn C , sinh năm 1970, trú khu phố Tén Tằn, thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát là người đến hỏi mua cây chít và ma túy với C Văn V nhưng Va không bán ma túy cũng như cây chít cho, lúc Công an kiểm tra và bắt quả tang Chá Văn V thì C cũng có mặt ở đó nên C chỉ là người chứng kiến, không có cơ sở để xử lý trong vụ án này.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên: Chá Văn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý

Về điều luật: Áp dụng: Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm i khoản 1 điều 249; Điều 38; Điều 50; Điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Xử phạt:

- Hình phạt chính: 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ (26/01/2021).

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo được miễn hình phạt bổ sung.

Về tang vật: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Phong bì niêm phong mẫu vật là ma túy đã qua giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành ghi vụ Chá Văn V , có chữ ký và ghi rõ họ tên: Nguyễn Trần Đ, Trần Thị Thúy H , Vũ Văn N cùng các hình dấu làm giáp lai. Phong bì niêm phong còn nguyên vẹn.

Vật chứng kể trên đang lưu giữ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, theo Quyết định chuyển vật chứng số 16/QĐ- VKS-ML, ngày 26/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát và Biên bản giao nhận vật chứng số: 30/2021/TV-CCTHADS ngày 29/4/2021 giữa Công an huyện Mường Lát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Áp dụng điều 135, điều 136BLTTHS; Điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tun: Bị cáo được miễn tiền án phí HSST.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ điều 331, điều 333 và điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Án xử công khai, có mặt bị cáo, người bào chữa, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 24/2021/HS-ST

Số hiệu:24/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;