Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 25/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25/3/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/2021/TLST-HS ngày 08/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST-HS ngày 07/3/2021 đối với bị cáo: Nguyễn Anh T; sinh năm 1997 tại Gia Lai. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ A, phường I, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Nghề nghiệp: Buôn bán. Trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn H và bà Hồ Thị Kim C; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Tường L và có 01 người con sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo Nguyễn Anh T bị tạm giữ từ ngày 13/10/2020 đến ngày 22/10/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai (Có mặt).

Người tham gia tố tụng khác:

1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Lê Trang Mỹ D, sinh năm 1989; địa chỉ: Xã I S, huyện I, tỉnh Gia Lai (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Chị Nguyễn Thị Tường L, sinh năm 1999; địa chỉ: Tổ A, phường K, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai (có mặt).

- Anh Bùi Duy Kh, sinh năm 1996; địa chỉ: Làng O, xã Ia Pếch, huyện I, tỉnh Gia Lai (vắng mặt)

2. Người chứng kiến: Chị Võ Thanh Th, sinh năm 1980; địa chỉ: Tổ B, phường P, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

3. Người làm chứng: Anh Lê Huỳnh Tấn Ph, sinh năm 1997; địa chỉ: 51 C C L, phường D, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Anh T là người có sử dụng chất ma túy. Thông qua mối quan hệ xã hội, T có được số điện thoại 0979X977 của người đàn ông tên TS(chưa xác định nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy. Vào khoảng 15 giờ ngày 13/10/2020, T gọi điện thoại cho TS để hỏi mua ma túy, TS đồng ý và hẹn gặp nhau tại khu vực ngã tư phường Yên Thế, thành phố Pleiku. Sau đó, T đón xe taxi (không rõ hãng xe, biển số) đi từ đường Wừu đến khu vực ngã tư phường Yên Thế, thành phố Pleiku mua của TS 01 gói ma túy (loại Methamphetamine) với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cất vào trong túi áo khoác rồi đón xe taxi (không rõ hãng xe, biển số) để về nhà trọ tại tổ A, phường K, thành phố Pleiku. Tại đây, T lấy một ít ma túy cho vào dụng cụ để sử dụng; số còn lại, cất giấu trong túi áo khoác mặc trên người. Sau đó, T gọi điện thoại cho Lê Huỳnh Tấn Ph nhờ đến chở T đi lấy xe sửa tại tiệm trên đường Phan Đình Phùng, Pleiku thì Ph đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu AirBlade biển số 81B1- 784.22 đến chở T. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Bùi Duy Kh (tên gọi khác Bờm) gọi điện thoại đến số điện thoại của T nhờ mua giúp ma túy 300.000 đồng (ba trăm nghìn) ma túy để sử dụng. Sẵn có ma túy trong túi, T nảy sinh ý định bán lại số ma túy còn lại cho Kh nên đồng ý và hẹn Khánh đến đường Nguyễn Trung Trực, Pleiku. T nhờ Ph chở đến đường Nguyễn Trung Trực, nhưng không nói cho Ph biết đi bán ma túy. Đến khoảng 16 giờ 09 phút cùng ngày, khi T đang đứng trước số nhà 05 đường Nguyễn Trung Trực để chờ Kh đến để bán ma túy thì bị bị lực lượng điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố Pleiku phát hiện, bắt quả tang; thu giữ trong túi áo khoác 01 gói nilon bên trong có chứa chất rắn tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA- 1030 kèm sim số 03739X13, 1.000.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; thu giữ của Ph chiếc xe mô tô nhãn hiệu Air Blade biển số 81B1-784.22.

Cơ quan điều tra đã tiến hành mở niêm phong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA- 1030 kèm sim số 03739X13 của T để xác định số điện thoại của TS và Bùi Duy Kh. Quá trình điều tra, xác định: Số điện thoại của đối tượng TS mà T đã liên lạc mua ma túy là 0979X977 thì Công ty viễn thông Quân đội - Viettel xác định số thuê bao này là của chị Lê Trang Mỹ D đăng ký thuê bao trả trước từ ngày 14/11/2019. Trong quá trình điều tra, chị D khai: Vào cuối năm 2019, chị D có đăng ký thuê bao trả trước đối với số điện thoại trên và sử dụng đến tháng 04/2020 thì không dùng nữa, đã vứt sim số này đi và không rõ sau đó ai sử dụng chiếc sim số này.

Qua giám định, tại bản kết luận giám định số 753/KLGĐ ngày 21/10/2020, của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon, trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,3099 gam”.

Tại bản Cáo trạng số 27/CT – VKS ngày 08/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố Nguyễn Anh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị:

Áp dụng khoản khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Anh T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng vì xác định được bị cáo không có thu nhập và tài sản riêng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu bán đấu giá sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia TA-1030 kèm sim số.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: Bình nhựa màu trắng có gắn ống thủy tinh hình móc câu và ống hút nhựa màu đen; Bì công văn ghi số 753/PC09 ngày 21/10/2020, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai Số tiền 1.000.000 đồng không liên quan đến tội phạm, đề nghị hoàn trả cho Nguyễn Anh T, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để hỗ trợ công tác thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Anh T khai nhận hành vi đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, cụ thể:

Vào khoảng 15 giờ, ngày 13/10/2020, Nguyễn Anh T đi đến khu vực ngã tư phường Yên Thế, Pleiku mua 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng của 01 người đàn ông tên TS (không rõ nhân thân, lai lịch). Sau khi mua được ma túy, bị cáo mang về phòng trọ tại số 16 đường Wừu, tổ 3, phường K, Pleiku sử dụng; số còn lại, cất giấu vào túi áo khoác. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Bùi Duy Kh gọi điện thoại nhờ T mua giúp 300.000 đồng ma túy, do số ma túy mà T mua chưa sử dụng hết nên đồng ý bán lại cho Kh và hẹn nhau đến đường Nguyễn Trung Trực, tổ 5, phường P, Pleiku để thực hiện việc mua bán. Tại đây, Nguyễn Anh T bị bắt quả tang cùng các tang vật, gồm: 01 gói ma túy, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1030 kèm sim số và 1.000.000 đồng.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 13/10/2020, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án cũng như phù hợp với Bản kết luận giám định số 753/KLGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Gia Lai. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Nguyễn Anh T đã có hành vi tàng trữ nhằm mục đích mua bán ma túy, hành vi đó đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố.

[3] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho Nguyễn Anh T là “Người phạm tội thành khẩn khai báo’’ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Hội đồng xét xử thấy rằng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị nêu trên là có căn cứ, đồng thời nhận thấy tại phiên tòa bị cáo còn tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải, hối hận và muốn sửa chữa lỗi lầm về hành vi phạm tội cho nên xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, vì vậy cần xử phạt, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo và răn đe phòng ngừa chung.

[6] Xét, bị cáo không có thu nhập ổn định, cũng như không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

[7] Đối với đối tượng tên TS là người bán ma túy cho T, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

[8] Đối với anh Lê Huỳnh Ngọc Ph là người sử dụng xe mô tô chở T đến địa điểm bán ma túy, nhưng T không nói cho Ph biết có ma túy trong người và mang đi bán, do đó, không có căn cứ để kết luận Ph đồng phạm với T.

[9] Đối với Bùi Duy Kh là người đã gọi điện nhờ T mua ma túy, T đã đồng ý bán ma túy cho Kh, nhưng Kh chưa đến gặp T để nhận ma túy và giao tiền cho T nên không xử lý về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, Kh khai nhận có sử dụng ma túy vào ngày 14/9/2020 tại tổ 2, phường Chi Lăng, Pleiku; Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố Pleiku đã ra Quyết định xử phạt hành chính (phạt 750.000 đồng) đối với Kh.

[10] Đối với chị Nguyễn Thị Tường L (vợ của T) là người ở cùng với T tại nhà trọ, nhưng việc T cất giấu ma túy và sử dụng ma túy tại phòng trọ, rồi mang ma túy đi bán kiếm lời thì chị L đều không biết nên không có căn cứ để xử lý.

[11] Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ theo đề nghị của Kiểm sát viên nêu trên.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Căn cứ Khoản 1 Điều 251; Điều 38, Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Anh T 02 (hai ) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 13/10/2020.

- Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Xử: Tịch thu bán đấu giá sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia TA-1030 kèm sim số.

Tịch thu tiêu hủy: Bình nhựa màu trắng có gắn ống thủy tinh hình móc câu, ống hút nhựa màu đen và bì công văn ghi số 753/PC09 ngày 21/10/2020, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai.

Hoàn trả 1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho Nguyễn Anh T, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để hỗ trợ công tác thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/02/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku).

- Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí lệ, phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Anh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền làm đơn kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Riêng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2021/HS-ST

Số hiệu:24/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;