Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 241/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 241/2021/HSST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Thái Nguyên, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 249/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 234/2021/ QĐ XXST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Hoàng Văn A, sinh ngày 18 tháng 02 năm 1983, tại tỉnh Thái Nguyên;

(không có tên gọi khác); đăng ký hộ khẩu và ở: Tổ a, phường TT, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch:Việt Nam; trình độ học vấn: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Không; chức vụ (Đảng, Đoàn thể, Chính quyền) trước khi phạm tội: Không;

Con ông Hoàng Văn Đ, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1958; có vợ là Phạm Thùy L, sinh năm 1990; có 01 con ( sinh năm 2011); gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/3/2021. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt);

+Người chứng kiến: Ông Tăng Đình H, sinh năm 1960;

ĐKHK và ở: Tổ 9, phường T, thành phố Thái Nguyên ; ( vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 30/3/2021, Tổ công tác Công an phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực ngõ 801, tổ 7 của phường Tân Lập đã phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy nên tiến hành kiểm tra. Đối tượng khai nhận là Hoàng Văn A và tự giác lấy từ túi quần phía sau bên phải A đang mặc 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng giao nộp cho Tổ công tác, A khai khai đó là Heroine A mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định (bì ký hiệu A).

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã tiến hành mở niêm phong cân xác định chất bột màu trắng thu giữ của A có khối lượng là 0,162 gam; lấy 0,047 gam niêm phong bì ký hiệu H1 gửi giám định. Số chất bột còn lại là 0,115 gam niêm phong bảo quản theo quy định (bì ký hiệu H2);

Tại bản Kết luận giám định số 670/KL-KTHS ngày 08/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu vật gửi giám định trong bì H1 là chất ma túy, loại Heroine. Sau khi giám định còn lại 0,037 gam đã hoàn lại và bảo quản theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra A khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 10 giờ 30 phút ngày 30/3/2021, A đi xe Bus từ nhà (tổ 11, phường Trung Thành) đến khu vực Công ty Glonics thuộc địa phận phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên với mục đích mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi xuống xe A đi bộ về phía ngõ 801, đường 3/2 thuộc tổ 7, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên, khi đến đầu ngõ A gặp 02 nam thanh niên không quen biết đang ngồi trên 01 chiếc xe mô tô, không rõ biển kiểm soát đang đỗ tại rìa đường, A đã hỏi mua ma túy và được 02 đối tượng đồng ý rồi bảo A đi vào trong ngõ này để giao dịch. Tại đây, A đã được nam thanh niên ngồi sau xe mô tô giao cho 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có ma túy với giá 150.000 đồng, mua xong A cất gói chất bột vào túi quần phía sau bên phải rồi tiếp tục đi bộ tìm nơi sử dụng, đi được khoảng 300m thì bị thì bị Tổ công tác của Công an phường Tân lập phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án là 0,162 gam chất ma túy, loại Heroine (gồm bì niêm phong ký hiệu H1 là số ma túy còn lại sau giám định và bì ký hiệu H2) - hiện đang bảo quản tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 261/CT-VKSTP ngày 19/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Hoàng Văn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 - sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS);

Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo hoàn toàn thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Kết thúc phần xét hỏi, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thành phố Thái Nguyên thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích các tài liệu chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra và diễn biến tại phiên tòa đã giữ nguyên Quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Xác định bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của BLHS;

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù;

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án, đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của bị cáo giải quyết theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận và hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, nhất trí với Bản luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS), người tham gia tố tụng trong vụ án không có khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên, các tài liệu có trong hồ vụ án đủ cơ sở cho việc giải quyết vụ án, do đó HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người tham gia tố tụng này theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo hoàn toàn thừa nhận do nghiện ma túy nên bị cáo đã mua số ma túy trên để sử dụng cho bản thân như bản Cáo trạng của VKSND thành phố Thái Nguyên đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác. Chứng minh đầy đủ, toàn diện các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 10 giờ 30 phút ng ày 30/3/2021, tại khu vực tổ 7, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên, Hoàng Văn A đang có hành vi tàng trữ 0,162 gam chất ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác của Công an phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Hành vi của bị cáo đã thực hiện nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất gây nghiện, làm gia tăng tội phạm và tệ nạn xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Tính chất, mức độ của vụ án là nghiêm trọng, bản thân bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý đối với sức khoẻ con người, kinh tế- xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, do đó hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý ", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS. VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo tại Bản cáo trạng nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Nội dung quy định này như sau:

Điều 249.“ Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...

c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo là thanh niên tuổi đời còn trẻ, có sức khỏe, tuy nhiên, do thiếu ý thức rèn luyện, sống buông thả, vô trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, coi thường kỷ cương pháp luật, do đó bị cáo đã sa vào tệ nạn ma túy. Để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội như nêu trên.

Xét thấy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, cũng xét thấy bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của BLHS. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của BLHS. Mức hình phạt vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng đối với bị cáo nêu trên là có căn cứ.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định "Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...".Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án của bị cáo, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng: Vật chứng của vụ án là 0,162 gam chất ma túy, loại Heroine (được niêm phong theo quy định gồm bì ký hiệu H2 và số ma túy còn lại sau giám định bì ký hiệu H1), hiện đang bảo quản tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Nguyên;

Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS cần tiêu hủy toàn bộ vật chứng nói trên.

[5] Các vấn đề khác: Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của đối tượng bán ma túy cho bị cáo, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên xác định không có cơ sở xử lý đối tượng này là có căn cứ.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước;

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331;332 và 333 của BLTTHS;

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các quy định:

- Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 ; khoản 1 Điều 47 của BLHS;

- Khoản 1, 3 Điều 329; Điểm c khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331;332 và 333 của BLTTHS;

- Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13, ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên bố:

1.Về tội danh: Bị cáo Hoàng Văn A phạm tội:“ Tàng trữ trái phép chất ma túy” ;

2.Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn A 18 ( mười tám) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 30/3/2021;

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

4.Về vật chứng: Tiêu hủy 02 bì niêm phong ký hiệu H1 và H2, bên trong có Heroine (tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 391 do Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Nguyên lập ngày 20/5/2021)

5.Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 241/2021/HSST

Số hiệu:241/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;