TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH – TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 241/2020/HSST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30/12/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 232/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 245/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Trung H, tên gọi khác: không; Sinh năm: 1999 tại tỉnh Đồng Nai Nơi đăng ký thường trú: Khu phố P, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai Nơi sinh sống: Khu phố P, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 10/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông: N, sinh năm: 1969 và bà N, sinh năm: 1980 Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất, chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự : Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/8/2020 và chuyển tạm giam đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lúc 22 giờ 30 phút ngày 26/8/2020, lực lượng Công an huyện Long Thành phối hợp công an xã Đ kiểm tra hành chính nhà nghỉ G ở xã Đ, huyện L. Khi kiểm tra phòng số 203 do Trần Trung H và Cao Phúc Băng K thuê phát hiện trên tay H có cầm 01 hộp giấy màu đen, bên trong chứa 02 túi nylong (01 túi kích thước 3,2x4,5cm và 01 túi kích thước 1,2x02cm), bên trong chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy, đang chuẩn bị bỏ vào bồn vệ sinh phi tang thì bị lực lượng công an bắt giữ. H khai đó là ma túy do H mua để sử dụng cho bản thân, Công an huyện Long Thành tiến hành tạm giữ H và thu giữ tang vật để xử lý.
Quá trình điều tra xác định như sau: Trần Trung H nghiện ma túy từ năm 2018, trung bình khoảng 2-3 ngày H sử dụng ma túy một lần, nguồn gốc ma túy do H mua của Kha (không rõ tên, lai lịch) địa chỉ ở khu vực vòng xoay cao tốc L thuộc xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Lúc 20 giờ ngày 26/8/2020, H điều khiển xe mô tô biển số 60M1-9799 đến khu vực vòng xoay cao tốc L gặp Kha mua 900.000 đồng ma túy. Kha đồng ý và đưa cho H 01 hộp giấy màu đen bên trong chứa 02 túi ma túy (01 túi kích thước 3,2x4,5cm và 01 túi kích thước 1,2x02cm), H cất giấu vào trong người rồi điều khiển xe đến khu ấp Trầu, xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch đón Cao Phúc Băng K đi chơi. Đến 21 giờ cùng ngày, H rủ Kiều đến thuê nhà nghỉ H để sử dụng ma túy thì K đồng ý. H thuê phòng số 203, khi vào phòng H lấy ma túy ra chuẩn bị sử dụng. Lúc này, lực lượng công an vào kiểm tra hành chính, do lo sợ nên H cầm ma túy chạy vào nhà vệ sinh định phi tang vật chứng nhưng chưa kịp thì bị bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.
Tại bản kết luận giám định số 2046/GĐMT-PC09 ngày 03 tháng 9 năm 2020 của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,8163 gam, loại: Methamphetamine.
Vật chứng thu giữ: - 01 gói niêm phong ký hiệu số 2046/KLGĐ-PC09 chứa 1,7895 gam ma túy còn lại sau giám định được chuyển đến Chi Cục thi hành án dân sự huyện Long Thành.
- 01 xe mô tô biển số 60M1-9799 do H mượn của ông N, ông N không biết H sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nhân.
Trước Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành bị cáo Trần Trung H đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng cùng các vật chứng, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập tại hồ sơ vụ án.
Tại bản Cáo trạng số 246/CT-VKSLT ngày 02 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Trần Trung H về tội danh: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo điều khoản nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Trung H mức án từ 16 tháng đến 18 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Trung H đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, đã có đủ cơ sở xác định: Trần Trung H là người nghiện ma túy. Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 26/8/2020, tại nhà nghỉ Gia Hân thuộc khu 12, xã Long Đức, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, H có hành vi tàng trữ 02 túi nylon bên trong có chứa 1,8163 gam ma túy, loại: Methamphetamin thì bị Công an huyện Long Thành kết hợp Công an xã Long Đức kiểm tra, phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.
Hành vi của bị cáo Trần Trung H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người trưởng thành có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc Nhà nước cấm tất cả các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển và sử dụng trái phép chất ma túy, tuy nhiên để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã bất chấp pháp luật, mua ma túy về tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Là nguyên nhân khiến tệ nạn ma túy phát triển, kéo theo nhiều tệ nạn và các loại tội phạm khác, đồng thời là nguyên nhân lây truyền căn bệnh nguy hiểm.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:
Bị cáo có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để bị cáo tập trung cải tạo, rèn luyện để có thể trở thành một công dân tốt đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
[3] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 xe mô tô biển số 60M1-9799 do ông Trần Văn Nhân là chủ sở hữu, khi cho H mượn xe, ông Nhân không biết H sử dụng đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nhân là đúng quy định pháp luật.
Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong sau giám định số 2046/KLGĐ-PC09 ngày 03/9/2020 của Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.
[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng theo quy định.
[5] Về tính hợp pháp của các quyết định, hành vi tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều được thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
[6] Đối với người tên Kha có hành vi bán ma túy cho H, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.
Đối với Cao Phúc Băng Kiều, quá trình điều tra xác định Kiều không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy của Trần Trung H nên cơ quan điều tra không xử lý là đúng quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên bố bị cáo Trần Trung H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Trần Trung H 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2020.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong sau giám định số 2046/KLGĐ-PC09 ngày 03/9/2020 của Phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L).
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 241/2020/HSST
Số hiệu: | 241/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về