TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 23/2024/HS-ST NGÀY 27/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2024/TLST-HS ngày 29/01/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2023/QĐXXST-HS ngày 16/02/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Khang Vũ Thị Ngọc T (tên gọi khác: P), sinh ngày 14/8/1996 tại thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Nơi đăng ký thường trú: Số 16, đường Nam Cao, phường Vĩnh Quang, thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: Số 136, đường Mạc Cửu, phường V, thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Sáu và bà Trần Thị Tốt.
Tiền án, tiền sự: Không.
Ngày 19/10/2023, có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt quả tang và bị tạm giữ. Đến ngày 27/10/2023, bị khởi tố và tạm giam theo Lệnh số 168, ngày 27/10/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố G. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố G.
(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)
Người chứng kiến:
- Ông Vũ Văn P, sinh năm 1962 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số 14/2 đường Nguyễn Trãi, phường V, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.
- Ông Nguyễn Tuấn D, sinh năm 1960 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số 45/1 đường N, phường V, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 01 giờ 50 phút ngày 19/10/2023, tại khu vực sân trước nhà số 136, đường Mạc Cửu, phường V, thành phố G, Tổ tuần tra 108 thuộc Công an tỉnh Kiên Giang kết hợp Công an phường V bắt quả tang Trần Khang Vũ Thị Ngọc T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong lòng bàn tay (bên trái) của Trần Khang Vũ Thị Ngọc T 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, bên trong vỏ bao thuốc lá có 02 (hai) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu xanh, bên trong mỗi bịch nylon có chứa các hạt chất rắn màu trắng, không đồng nhất, T khai nhận là ma túy đá.
Trần Khang Vũ Thị Ngọc T là đối tượng nghiện ma túy nhưng không sử dụng thường xuyên, nguồn ma túy có để sử dụng là do T mua của người thanh niên tên Tuấn (không rõ tên thật và địa chỉ cụ thể). Vào ngày 19/10/2023, T một mình đi chơi về đến khu vực ngã tư đường Mạc Cửu- Lê Thị Hồng Gấm, phường V, thành phố G gặp trực tiếp người thanh niên tên Tuấn hỏi mua ma túy thì được Tuấn đồng ý bán và hẹn T giao tại trước nhà số 136, đường Mạc Cửu, phường V. Khi về đến nhà thì T đứng đợi trước cửa khoảng 15 phút sau thì Tuấn đem đến giao cho T 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, bên trong vỏ bao thuốc lá có 02 (hai) bịch ma túy đá Tuấn bán với giá 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), Tuấn chưa lấy tiền, do Tuấn nói có việc đi gấp sẽ quay lại lấy tiền sau. Khi mua được ma túy thì T cầm trên tay (bên trái) định đem vào nhà để sử dụng nhưng kịp đi vào nhà thì bị Tổ tuần tra 108 thuộc Công an tỉnh Kiên Giang kết hợp Công an phường V bắt quả tang cùng tang vật. Tại Cơ quan điều tra T khai nhận mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy là để sử dụng cá nhân.
Ngày 27/10/2023, Trần Khang Vũ Thị Ngọc T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam để điều tra.
* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:
- 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, bên trong vỏ bao thuốc lá có 02 (hai) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu xanh, bên trong mỗi bịch nylon có chứa các hạt chất rắn màu trắng, không đồng nhất.
* Tại bản kết luận giám định số: 1079/KL-KTHS, ngày 25 tháng 10 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận:
- Các hạt chất rắn màu trắng, không đồng nhất chứa trong 02 (hai) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu xanh được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 2,0923 gam.
Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 247, Nghị định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ.
* Xử lý vật chứng:
Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số:
1079/2023 có chữ ký của Giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Võ Thị Thủy T.
+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu HERO.
Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 198, ngày 29/10/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố G.
Tại Bản cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 26/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
- Hình phạt bổ sung: Không đề nghị do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, nhận thức được hành vi của bị cáo là sai trái, mong được xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về xã hội làm ăn lương thiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đúng với nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Cụ thể: Vào ngày 19/10/2023, T được Tuấn (chưa xác định được nhân thân và lai lịch cụ thể) đem ma túy đến trước nhà số 136, đường Mạc Cửu, phường V, thành phố G bán cho T để trong 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, bên trong vỏ bao thuốc lá có 02 (hai) bịch ma túy đá bán với giá 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Sau khi mua được ma túy của Tuấn thì T cầm trên tay (bên trái) định đem vào nhà để sử dụng nhưng chưa kịp đi vào nhà thì bị bắt quả tang, thu giữ một vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, bên trong bao thuốc lá có 02 (hai) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu xanh, bên trong mỗi bịch nylon có chứa các hạt chất rắn màu trắng, không đồng nhất. Qua giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định là 2,0923 gam.
Xét thấy lời khai nhận của bị cáo về hành vi và các tình tiết của vụ án là phù hợp với lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Theo đó, hành vi của bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự:“Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; điểm c: Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo với tội danh và Điều luật viện dẫn trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự để nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người, an ninh trật tự, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Tuy nhiên bị cáo vẫn phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nên cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả bị cáo đã gây ra, để giáo dục, cải tạo bị cáo và đảm bảo được tính phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên có căn cứ cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo T chưa có tiền án, tiền sự được xem là có nhân thân tốt, đây là tình tiết cần được xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.
Từ những phân tích nêu trên, sau khi nghị án Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong một thời gian nhất định để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy vật chứng trong vụ án là:
+ 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số: 1079/2023 có chữ ký của Giám định viên Lê Đức Huy và người chứng kiến Võ Thị Thủy Tiên.
+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu HERO.
Theo Quyết định chuyển vật chứng số 21 ngày 26/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G.
[7] Về các vấn đề khác của vụ án: Đối với người thanh niên tên Tuấn đã bán ma túy cho Trần Khang Vũ Thị Ngọc T hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự;
Điều 106; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;
Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
- Tuyên bố bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T 02 (hai) năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 19/10/2023.
2. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy vật chứng trong vụ án là:
+ 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số: 1079/2023 có chữ ký của Giám định viên Lê Đức Huy và người chứng kiến Võ Thị Thủy Tiên.
+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu HERO.
Theo Quyết định chuyển vật chứng số 21 ngày 26/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G.
3. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Khang Vũ Thị Ngọc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/02/2024).
Bản án 23/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 23/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về