Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 12 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 561/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 636/2022/QĐXXST-HS, ngày 26 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân Đ, sinh năm: 1984; tại Đồng Nai.

Nơi thường trú: Số 584, khu phố 10, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Nơi ở: Số 7/12, khu phố 8, phường Tân H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai Giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Tự do; con ông Nguyễn Ngọc S (Đã chết) và bà Vũ Thị M. Bị cáo có vợ tên Nguyễn Tuyết N, sinh năm 1990 (Đã ly hôn). Bị cáo có 01 con sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 08/10/2009, Nguyễn Xuân Đ bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 (một năm) tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Tổ chức đánh bạc”, thời gian thử thách 16 tháng tính từ ngày tuyên án. Bị cáo đã chấp hành xong.

Bị bắt quả tang ngày 12/7/2022. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

(Bị cáo Đông có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Xuân Đ là người sử dụng trái phép chất ma túy. Vào ngày 07/7/2022, Đông sử dụng điện thoại liên hệ qua mạng xã hội facebook với một người đàn ông tên B (chưa rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy tổng hợp (hàng khay) với giá 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng). B đồng ý bán và hẹn Đ giao ma túy tại khu vực gần Bệnh viện đa khoa Thống Nhất thuộc phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Đ đi bộ đến địa điểm nêu trên mua 01 gói ma túy tổng hợp (hàng khay) và đưa cho B 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng). Sau khi mua, Đ đem số ma túy nêu trên về nhà trọ tại địa chỉ số 7/12, khu phố 8, phường Tân Hòa, thành phố B, tỉnh Đồng Nai lấy một phần ra sử dụng, phần còn lại Đ đem cất giấu trên vách cửa trong nhà với mục đích để sử dụng.

Đến khoảng 23 giờ 15 phút ngày 12/7/2022, tại nhà trọ của Đ thuộc địa chỉ nêu trên, Đông đang ngồi uống nước cùng hai người bạn là Nguyễn Quốc Khánh (sinh năm 1994, ngụ tại 15A/12, khu phố 8, phường Tân Hòa, thành phố B, tỉnh Đồng Nai) và chị Trịnh Thị Thu Kh (sinh năm 1982, ngụ tại ấp Quảng Lộc, xã Quảng Tiến, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai) thì Đ bị Công an phường Tân Hòa kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 túi ni lon kích thước ngang 5cm, dài 7cm, bên trong chứa chất màu trắng, được thu giữ trên vách cửa tầng một của căn nhà số 7/12, khu phố 8, phườngTân Hòa, thành phố B.

- 01 điện thoại hiệu iphone Xs, 64GB, số sê ri: C39XWFDPKPG2, Imei: 357228095581654. Đông sử dụng liên lạc để mua ma túy.

Tại Kết luận giám định số 1479/KLGĐ-PC09 ngày 19/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 39,0283 gam, loại Ketamine.

Đối với đối tượng tên B (chưa rõ lai lịch) bán ma túy cho Nguyễn Xuân Đông, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Đối với Nguyễn Quốc Kh và Trịnh Thị Thu K quá trình điều tra làm rõ Quốc Khánh và Thu Khánh không biết Đ tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 548/CT-VKSBH ngày 17/11/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị, Hội đồng xét xử áp dụng điểm l khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt, bị cáo Nguyễn Xuân Đ mức án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Xuân Đ đã thừa nhận bản thân bị cáo là người sử dụng ma túy loại Ketamine, khoảng 23 giờ 15 phút ngày 12/7/2022, tại số nhà 7/12, khu phố 8, phường Tân Hòa, thành phố B, Nguyễn Xuân Đ có hành vi tàng trữ trái phép 39,0283 gam ma túy, loại Ketamine thì bị Công an phường Tân Hòa phát hiện bắt quả tang.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Xuân Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người tốt và cũng để răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[7] Đối với đối tượng tên B (chưa rõ lai lịch) bán ma túy cho Nguyễn Xuân Đông, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

[8] Đối với Nguyễn Quốc Kh và Trịnh Thị Thu K quá trình điều tra làm rõ Quốc Kh và Thu K không biết Đ tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xử lý là phù hợp.

[9] Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong mẫu vật sau giám định số 1479/KL- KTHS, ngày 20/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại hiệu iphone Xs, số Imel: 357228095581654 là tài sản của Đ do Đ sử dụng vào việc phạm tội.

Tất cả vật chứng nêu trên theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/01/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm l khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Đ 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/7/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong mẫu vật sau giám định số 1479/KL- KTHS, ngày 20/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại hiệu iphone Xs, số Imel: 357228095581654 là tài sản của Đ do Đ sử dụng vào việc phạm tội.

Tất cả vật chứng nêu trên theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/01/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.

Về án phí: Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm hình sự xử công khai bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;