Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 08/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H (Địa chỉ: Số 60 đường H, phường N, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 318/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2023, đối với các bị cáo:

1. Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T), sinh ngày 07/3/1995, tại tỉnh Thừa Thiên H; nghề nghiệp: Lao động tự do; nơi cư trú: Tổ 3, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn N, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1971; gia đình có 03 anh em ruột, bị cáo là con đầu; vợ con: Chưa có.

* Quá trình nhân thân: Lúc nhỏ ở với cha, mẹ đi học văn hóa đến lớp 11/12 thì nghỉ học làm nghề lao động tự do.

- Ngày 24/12/2013 bị Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Bản án số 52/2013/HSST);

- Ngày 26/6/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản” (Bản án số 146/2015/HSST).

- Ngày 12/10/2020 chấp hành án phạt tù xong trở về địa phương sinh sống.

- Ngày 08/9/2021 bị Công an phường C, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi “Gây mất trật tự khu dân cư” (QĐ số: 4223/QĐ-XPHC) - đã nộp phạt ngày 14/9/2021.

- Tiền án: Có 02 (Hai) tiền án: (Bản án số 52/2013/HSST, ngày 24/12/2013 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H và Bản án số 146/2015/HSST ngày 26/6/2015 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H).

Tiền sự: Có 01 tiền sự (QĐ số: 4223/QĐ-XPHC ngày 08/9/2021 của Công an phường C, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H).

Bị cáo bị bắt quả tang tạm giữ từ ngày 18/8/2022, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 24/8/2022 cho đến nay tại nhà tạm giữ Công an thành phố H, bị cáo có mặt.

2. Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R), sinh ngày 22/5/1995, tại tỉnh Thừa Thiên H; nghề nghiệp: Công nhân; nơi cư trú: Tổ 5, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Thế E, sinh năm 1971 và bà Đào Thị N, sinh năm 1975; gia đình có 03 anh em ruột, bị cáo là con đầu; vợ con: Chưa có.

* Quá trình nhân thân: Nhỏ ở với cha mẹ, học văn hóa đến lớp 11/12 nghỉ học đi làm công nhân.

- Ngày 26/6/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt 06 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản” (Bản án số 146/2015/HSST);

- Ngày 29/4/2019 chấp hành án phạt tù xong trở về địa phương sinh sống. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang tạm giữ từ ngày 18/8/2022, sau đó, chuyển tạm giam từ ngày 24/8/2022 cho đến nay tại nhà tạm giữ Công an thành phố H, bị cáo có mặt.

3. Nguyễn Đình Thái B, sinh ngày 29/8/1997, tại tỉnh Thừa Thiên H; nghề nghiệp: Thiết kế đồ họa; nơi cư trú: Tổ 5, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1971; gia đình có 02 anh em ruột, bị cáo là con đầu; vợ con: Chưa có.

* Quá trình nhân thân: Nhỏ ở với cha mẹ, học văn hóa đến lớp 12/12 thì đi học thiết kế đồ họa và làm nghề thiết kế đồ họa cho đến ngày phạm tội.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang tạm giữ từ ngày 18/8/2022, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 24/8/2022 cho đến nay tại nhà tạm giữ Công an thành phố H, bị cáo có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Phan Thị Tuyết N, sinh năm 1995; địa chỉ: Số 19/31 đường N, phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, có mặt.

* Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1968; địa chỉ: Tổ 5, phường P, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H, có mặt.

- Chị Phan Thị Tuyết L, sinh năm 1997; địa chỉ: Số 19/31 đường N, phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, có mặt.

- Anh Trần Văn L, sinh năm 2002; địa chỉ: Tổ 1, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H, vắng mặt.

- Anh Lê Văn H, sinh năm 1987; địa chỉ: Số 03 đường U, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, có mặt.

- Anh Nguyễn Tiến T, sinh năm 1992; địa chỉ: Phòng 806, chung cư A, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 ngày 17/8/2022, Nguyễn Đình Thái B rủ Huỳnh Thế N đến quán Bar V ở thành phố H để ăn nhậu và nghe nhạc, Nhật đồng ý và đi bộ đến ngã ba D, phường P, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H và gặp B. Tại đây, N gọi điện thoại cho Phạm Quốc H nhờ Hùng đặt bàn ở quán Bar V và rủ H cùng đi chơi (tức là đến quán Bar V để cùng nhau ăn nhậu, nghe nhạc và sử dụng ma túy). H hiểu ý của N và gọi đặt bàn nhưng quản lý quán Bar V báo hết bàn nên H gọi báo cho N và nói nếu thích dùng ma túy thì tìm chỗ khác để sử dụng thì N đồng ý. Qua trao đổi trên điện thoại với H, N và H bàn bạc thống nhất H sẽ đi mua ma túy sau đó cùng nhau đi thuê khách sạn để sử dụng. H hẹn gặp N và B ở cầu V, thành phố H, còn chi phí cho việc sử dụng ma túy sau này sẽ chia đều sau khi sử dụng. N nói với B về việc thỏa thuận với H thuê khách sạn, mua ma túy để cả N , H và B cùng nhau sử dụng ma túy, chi phí sẽ chia đều cho cả ba người sau khi sử dụng thì B đồng ý. Sau đó, B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 75F1-824.XX chở N đến cầu V , thành phố H, cả hai mua trái cây và một cái đĩa sứ rồi đứng chờ H đến. H mượn xe mô tô biển kiểm soát 75L1-068.XX của bạn gái là Phan Thị Tuyết L đi đến Bến xe N, thành phố H gặp một nam thanh niên tên P (Không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 3.100.000 đồng (Ba triệu một trăm nghìn đồng) ma túy dạng kẹo và khay. Mua ma túy xong, H quay về đón Phan Thị Tuyết L đi đến cầu V , thành phố H để gặp N và B . Sau đó H chở Linh, B chở N đi đến khách sạn Đ ở số 01 đường Đ, phường V , thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H thuê phòng 606 và 604 nhưng cả nhóm chỉ sử dụng phòng 606. Khi cả nhóm vào phòng 606 thì H gọi điện qua số điện thoại trên mạng để thuê loa, đèn từ một người không rõ lai lịch, địa chỉ. Khoảng 10 phút sau thì H nói B xuống nhận loa, đèn và trả 450.000 đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng) cho người giao loa đèn. H , N , B sử dụng ma túy đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày18/8/2022 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H phát hiện bắt quả tang thu giữ số ma túy các đối tượng chưa sử dụng hết. Riêng Phan Thị Tuyết L ngồi chơi chứ không sử dụng ma túy cùng ba đối tượng trên. Ngay sau khi bắt quả tang H , N và B , Cơ quan điều tra xét nghiệm test nhanh, kết quả H , N và B đều dương tính chất ma túy loại Ketamine và MDMA; Phan Thị Tuyết L âm tính với chất ma túy.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 (Một) túi ni long màu trắng có viền màu đỏ bên trong chứa một mảnh vỡ viên nén màu tím nhạt;

- 01 (Một) túi ni long màu trắng có viền màu đỏ bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng;

- 01 (Một) túi ni long màu trắng có viền màu đỏ bên trong chứa tinh bột mịn màu trắng;

- 01 (Một) loa nhạc màu đen đã qua sử dụng có dòng chữ UBL phía trước;

- 01 (Một) đèn laze hình hộp màu trắng đã qua sử dụng. Có dòng chữ RGB phía trước;

- 01 (Một) dĩa sứ màu trắng đường kính 30cm;

- 01 (Một) thẻ nhựa màu gạch có chữ HERMES PARIS dùng để nghiền ma túy;

- 01 (Một) ống hít bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và giấy thuộc lá WHITE HORSE;

- 01 (Một) điện thoại di động màu trắng có dòng chữ Iphone phía sau. Số Imei: 35568707345329 (Thu giữ của Phạm Quốc H ) - 01 (Một) điện thoại di động màu trắng xám có dòng chữ Iphone phía sau. Imei: 35438006844539 (Thu giữ của Phạm Quốc H ) - 01 (Một) điện thoại di động màu trắng có dòng chữ Iphone phía sau. Imei:

35672508907541 (Thu giữ của Nguyễn Đình Thái B) - 01 (Một) điện thoại di động màu đen có dòng chữ Iphone phía sau. Imei: 355359088809281 (Thu giữ của Huỳnh Thế N ).

* Tại bản kết luận giám định số 522/GĐ ngày 23/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên H kết luận:

- Mảnh viên nén màu tím nhạt gửi giám định (Nêu tại mục 1.1, phần II) có khối lượng là 0,1188g, là ma túy, loại MDMA.

- Mẫu tinh thể rắn màu trắng gửi giám định (Nêu tại mục 1.2, phần II) có khối lượng là 0,8253g, là ma túy, loại Ketamine.

- Mẫu tinh thể rắn màu trắng gửi giám định (Nêu tại mục 1.3, phần II) có khối lượng là 0,2165g, là ma túy, loại Ketamine.

Sau khi giám định, Cơ quan giám định đã hoàn lại, niêm phong số ma túy còn lại sau khi giám định và các vật liệu, bao gói dùng để niêm phong khi gửi giám định (Tất cả được niêm phong theo quy định) cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H tiếp tục tạm giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra, bị can Phạm Quốc H , Huỳnh Thế N và Nguyễn Đình Thái B đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Đối với đối tượng tên P bán ma túy cho Phạm Quốc H , do không rõ lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với Phan Thị Tuyết L (Bạn gái của Phạm Quốc H ) có đến ngồi chơi tại Phòng 606 khách sạn Đạt Anh, số 01 đường Đ, phường V , thành phố H vào tối ngày 17/8/2022 cùng Phạm Quốc H , Huỳnh Thế N , Nguyễn Đình Thái B nhưng không tham gia sử dụng ma túy, không góp tiền để mua ma túy sử dụng. Do đó, H , N , B không phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. L không phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đối với Trần Văn Lợi (Sinh ngày 20/4/2002; trú tại Tổ 01, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H) mang tiền đến để trả nợ cho Phạm Quốc H , Lợi mới vào cửa phòng khách sạn thì H , B , N đã bị bắt quả tang. Lợi không biết và không góp tiền cùng các đối tượng này sử dụng ma túy nên không có căn cứ xử lý.

Trong giai đoạn truy tố, Phạm Quốc H khai sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 75L1-068.XX, đây là xe mô tô H mượn của Phan Thị Tuyết L đi một mình đến mua ma túy từ P. Qua điều tra xác định xe mô tô 75L1-068.XX là xe của chị Phan Thị Tuyết N (Sinh ngày 25/01/1995; trú tại 19/31 Nguyễn Công Trứ, phường H, thành phố H). Chị Nhi và L không biết việc H sử dụng xe mô tô 75L1-068.XX để đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H không thu giữ xe mô tô 75L1-068.XX là có căn cứ.

Nguyễn Đình Thái B khai sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 75F1-824.XX chở N cùng đi sử dụng ma túy ở khách sạn Đ , số 01 đường Đ, phường V , thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, qua điều tra xác định xe mô tô 75F1-824.XX của bố ruột của B (Ông Nguyễn Đình T) mua cho B . Hiện xe mô tô này đang được ông T quản lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H không thu giữ là thiếu sót. Tuy nhiên, xét thấy Nguyễn Đình Thái B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, B không sử dụng xe mô tô 75F1-824.XX để đi mua ma túy, xe mô tô này cũng không phải công cụ, phương tiện được bị can sử dụng trực tiếp để phạm tội. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H nhận thấy không cần thiết phải yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H thu giữ xe mô tô 75F1-824.XX của Nguyễn Đình Thái B. Về thiếu sót của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H sẽ xem xét ban hành kiến nghị, khắc phục thiếu sót này theo quy định.

Tại bản cáo trạng số 334/CT-VKS-HS ngày 30/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H truy tố bị cáo Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R) và Nguyễn Đình Thái B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Pên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T), Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R) và Nguyễn Đình Thái B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; xử phạt bị cáo Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T) từ 05 (Năm) năm 03 tháng đến 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ 18/8/2022.

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; xử phạt bị cáo Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R) từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ 18/8/2022.

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Thái B từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ 18/8/2022.

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

- Tịch thu và tiêu hủy:

+ 01 (Một) gói niêm phong chất ma túy bằng giấy màu trắng và băng keo trong, bên ngoài có hai dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên H, hai chữ ký ghi họ tên của Điều tra viên Trần Văn Viên, Giám định viên Trần N và dòng chữ “Hoàn mẫu vật vụ Phạm Quốc H , Nguyễn Đình Thái B và Huỳnh Thế N bắt ngày 18/8/2022”;

+ 01 (Một) đĩa sứ màu trắng, có đường kính 30cm; một thẻ nhựa màu gạch có chữ HERMES PARIS dùng để nghiền ma túy - Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (Một) loa nhạc màu đen có dòng chữ UBL phía trước; 01 (Một) đèn Laze hình hộp màu trắng, có dòng chữ RGB phía trước; 01 (Một) ống hút bằng tờ mệnh giá 10.000 đồng được bọc bên ngoài bằng giấy thuốc lá WHITE HORSE; 01 (Một) điện thoại di động Iphone màu trắng, có số Imei: 35568707345329; 01 (Một) điện thoại di động Iphone, màu trắng, có số Imei: 35438006844539; 01 (Một) điện thoại di động Iphone, màu đen, có số Imei: 355359088809281.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đình Thái B 01 (Một) điện thoại di động Iphone, màu trắng, có số Imei: 35672508907541.

* Về án phí: Buộc các bị cáo Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T), Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R) và Nguyễn Đình Thái B phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Pên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Quốc H , Huỳnh Thế N và Nguyễn Đình Thái B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời nhận tội của các bị cáo tại Pên tòa hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, người làm chứng và các chứng cứ khác được thu thập tại hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi, tranh luận công khai tại Pên tòa đã làm rõ hành vi phạm tội của các bị cáo; do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 18/8/2022, tại phòng số 606 khách sạn Đ , số 01 đường Đ, phường V , thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H, Phạm Quốc H , Huỳnh Thế N và Nguyễn Đình Thái B đang có hành vi tàng trữ 1,0418g (Một phẩy không bốn một tám gam) ma túy, loại Ketamine và 0,1188g (Không phẩy một một tám tám gam) ma túy, loại MDMA nhằm mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H phát hiện, bắt quả tang.

Phạm Quốc H , Huỳnh Thế N , Nguyễn Đình Thái B có hành vi tàng trữ trái phép 02 (Hai) chất ma túy được quy định tại các điểm c khoản 1 và điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, nên việc tính tổng khối lượng để xác định khung hình phạt theo hướng dẫn tại Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ như sau:

Tỷ lệ 1,0418 gam ma túy, loại Ketamine so với mức tối thiểu quy định tại điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là: (1,0418 : 20) x 100% = 5,2%.

Tỷ lệ 0,1188g ma túy, loại MDMA so với mức tối thiểu quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là: (0,1188 : 5) x 100% = 2,3%.

Tổng tỷ lệ phần trăm của hai chất ma túy nêu trên so với khối lượng tối thiểu của chất ma túy tương ứng ở khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là: 5,2% + 2,3% = 7,5%, là nhỏ hơn 100%.

Do đó, hành vi của các bị cáo Phạm Quốc H , Huỳnh Thế N và Nguyễn Đình Thái B đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này, đối với Phạm Quốc H tại bản án số: 146/2015/HSST, ngày 26/6/2015 của Tòa án nhân dân thành phố H đã xác định Phạm Quốc H là “Tái phạm” theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; H mới ra tù chưa được xóa án tích, mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Do đó, Phạm Quốc H phạm vào tình tiết định khung hình phạt là “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Vụ án có tính chất đồng phạm nhưng mang tính giản đơn. Các bị cáo Phạm Quốc H , Huỳnh Thế N và Nguyễn Đình Thái B đều là người thực hành. Tuy nhiên, Phạm Quốc H là người trực tiếp mua ma túy, là người trực tiếp liên hệ thuê loa đèn, do đó H là người thực hành tích cực phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án.

Với hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H đã truy tố bị cáo Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R) và Nguyễn Đình Thái B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân mà vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền về ma túy của Nhà nước, mà còn xâm hại trực tiếp đến trật tự quản lý xã hội, sức khỏe của con người, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nòi giống, làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội.

Các bị cáo Phạm Quốc H và Huỳnh Thế N đều có nhân thân xấu; bị cáo Phạm Quốc H đã bị Tòa án xử phạt tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Cướp tài sản” và đã bị Công an phường C, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây mất trật tự ở khu dân cư”. Bị cáo Huỳnh Thế N đã bị Tòa án xử phạt tù về tội “Cướp tài sản”. Lẽ ra, sau khi chấp hành xong hình phạt tù các bị cáo phải lấy đó làm bài học cho bản thân để phấn đấu trở thành người công dân tốt và có ích cho gia đình và xã hội, nhưng các bị cáo vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Bởi vậy, đối với Phạm Quốc H và Huỳnh Thế N cần xét xử nghiêm để giáo dục các bị cáo, đồng thời răn đe và phòng ngừa tội phạm. Đối với Nguyễn Đình Thái B có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, nên cần xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại Pên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên, được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (Một) gói niêm phong chất ma túy bằng giấy màu trắng và băng keo trong, bên ngoài có hai dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên H, hai chữ ký ghi họ tên của Điều tra viên Trần Văn Viên, Giám định viên Trần N và dòng chữ “Hoàn mẫu vật vụ Phạm Quốc H , Nguyễn Đình Thái B và Huỳnh Thế N bắt ngày 18/8/2022”. Xét đây là chất độc hại, nên cần tuyên tịch và thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (Một) đĩa sứ màu trắng, có đường kính 30cm; 01 (Một) thẻ nhựa màu gạch có chữ HERMES PARIS dùng để nghiền ma túy, đây là công cụ phạm tội, nên cần tuyên tịch và thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (Một) loa nhạc màu đen có dòng chữ UBL phía trước và 01 (Một) đèn Laze hình hộp màu trắng, có dòng chữ RGB phía trước. Vào ngày 21/9/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ban hành thông báo số: 2441/TB-ĐTMT về việc truy tìm chủ sở hữu trên Đài phát thanh - Truyền hình tỉnh Thừa Thiên H; Công an các phường, xã thuộc thành phố H thông báo trên hệ thống truyền thanh địa phương để truy tìm ai là chủ sở hữu vật chứng, nhưng đến nay không tìm ra chủ sở hữu. Nên cần tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với một ống hút bằng tờ mệnh giá 10.000 đồng được bọc bên ngoài bằng giấy thuốc lá WHITE HORSE, các bị cáo dùng để sử dụng trái phép chất ma túy, nên cần tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (Một) điện thoại di động Iphone màu trắng, có số Imei: 35568707345329 và một điện thoại di động Iphone, màu trắng, có số Imei: 35438006844539, thu giữ của Phạm Quốc H ; một điện thoại di động Iphone, màu đen, có số Imei: 355359088809281, thu giữ của Huỳnh Thế N . Các bị cáo Phạm Quốc H và Huỳnh Thế N đã sử dụng các điện thoại này làm phương tiện phạm tội. Xét cần tuyên tịch thu vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 (Một) điện thoại di động Iphone, màu trắng, có số Imei: 35672508907541, thu giữ của Nguyễn Đình Thái B. Bị cáo B không sử dụng điện thoại này vào mục đích phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Đình Thái B.

[5] Về án phí: Buộc các bị cáo Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T) Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R) và Nguyễn Đình Thái B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T) Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R) và Nguyễn Đình Thái B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T) 05 (Năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ 18/8/2022.

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R) 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ 18/8/2022.

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt Nguyễn Đình Thái B 01 (Một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ 18/8/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử:

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 (Một) gói niêm phong chất ma túy bằng giấy màu trắng và băng keo trong, bên ngoài có hai dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên H, hai chữ ký ghi họ tên của Điều tra viên Trần Văn Viên, Giám định viên Trần N và dòng chữ “Hoàn mẫu vật vụ Phạm Quốc H , Nguyễn Đình Thái B và Huỳnh Thế N bắt ngày 18/8/2022”; 01 (Một) đĩa sứ màu trắng, có đường kính 30cm; 01 (Một) thẻ nhựa màu gạch có chữ HERMES PARIS dùng để nghiền ma túy.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (Một) loa nhạc màu đen có dòng chữ UBL phía trước; 01 (Một) đèn Laze hình hộp màu trắng, có dòng chữ RGB phía trước; 01 (Một) ống hút bằng tờ mệnh giá 10.000 đồng được bọc bên ngoài bằng giấy thuốc lá WHITE HORSE; 01 (Một) điện thoại di động Iphone màu trắng, có số Imei: 35568707345329; 01 (Một) điện thoại di động Iphone, màu trắng, có số Imei: 35438006844539 và một điện thoại di động Iphone, màu đen, có số Imei: 355359088809281.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đình Thái B 01 (Một) điện thoại di động Iphone, màu trắng, có số Imei: 35672508907541.

Tất cả vật chứng trên thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/12/2022, giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc các bị cáo Phạm Quốc H (Tên gọi khác: T) Huỳnh Thế N (Tên gọi khác: R) và Nguyễn Đình Thái B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại Pên tòa có quyền kháng cáo bản này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;