TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 15/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2021/HSST ngày 15 tháng 10 năm 2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Đặng Ngọc X (tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 20/10/1960; Nơi sinh: Tại tỉnh Thái Bình; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước ngày bị bắt: Phường N, thành phố Đ, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Sơn H - (đã chết) và bà Nguyễn Thị M (đã chết); bị cáo có vợ Nguyễn Thị T - sinh năm: 1965; bị cáo có 02 người con, con lớn nhất sinh năm sinh năm 1989, con nhỏ nhất sinh năm 1997;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/8/2021, sau đó bị tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T - sinh năm: 1965; Địa chỉ: Bản Huổi Tóong, xã Huổi Lèng, huyện C, tỉnh Đ. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 13 giờ ngày 06/8/2021, tại khu vực phường T, thành phố Đ, Công an thành phố Đ làm nhiệm vụ phát hiện Đặng Ngọc X điều khiển xe máy biển kiểm soát 27B1 - xxxxx có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe, kiểm tra, phát hiện trong mũ bảo hiểm Index của X đang đội có 01 gói nhỏ chứa 0,28 gam Heroine, gói bằng mảnh nilon màu hồng và mảnh giấy bạc màu vàng. X khai gói Heroine trên, X vừa xuống bản Na Ngum, xã Thanh Yên, huyện Đ mua của một người đàn ông không quen biết ở đường với giá 120.000 đồng, mục đích để sử dụng. Trên đường X về thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Tại Bản kết luận giám định số 959/GĐ-PC09 ngày 14/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ, kết luận: Mẫu giám định ký hiệu M là chất ma túy: Loại heroine. Khối lượng vật chứng thu giữ là 0,28 gam. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018;
Tại Bản cáo trạng số: 144/CT-VKSTPĐBP ngày 14/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Đ truy tố bị cáo Đặng Ngọc X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Đ giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và khẳng định hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 0,20 gam Heroine (là vật chứng còn lại sau giám định);
01 mảnh giấy bạc màu vàng; 01 mảnh nilon màu hồng; 01 mũ bảo hiểm màu bạc nhãn hiệu INDEX loại chùm đầu.
Tich thu sung ngân sách nhà nước ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, màu: đen xanh, mang biển kiểm soát: 27B1-xxxxx, có số khung:
1310FY019599; số máy: E3S1E021547 kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 027232 mang tên Nguyễn Thị T. Trả lại cho bà Nguyễn Thị T ½ giá trị chiếc xe.
Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà T và bị cáo là vợ chồng, chiều ngày 06/8/2021, bị cáo X có điều khiển xe máy biển kiểm soát 27B1 - xxxxx để đi mua ma túy, bà không biết. Chiếc xe do bà T đứng tên, bà mua trong thời kỳ hôn nhân, nguồn tiền để mua chiếc xe là do con trai cho bà để mua xe làm phương tiện đi lại, bị cáo X là người nghiện ma túy không đóng góp gì để mua chiếc xe, chiếc xe hiện là phương tiện đi lại duy nhất của bà, t uy nhiên bà T không xuất trình được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Bà T đề nghị HĐXX xử lý chiếc xe theo quy định của pháp luật, ngoài ra không có yêu cầu nào khác.
Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Hồi 13 giờ ngày 06/8/2021 tại khu vực phường T, thành phố Đ, Đặng Ngọc X đã có hành vi cất giấu trái phép 0,28 gam Heroine trong mũ bảo hiểm của mình đang đội, mục đích để bản thân sử dụng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
[2] Về tính chất, mức độ, động cơ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và cộng đồng cũng như nhận thức được chính sách pháp luật hình sự của nhà nước đối với những hành vi mua bán, tàng trữ ... trái phép chất ma túy nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội lớn, không những xâm phạm những quy định của nhà nước về chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn thành phố Đ. Do vậy, cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trước khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Tại giai đoạn điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là con của liệt sĩ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[5] Từ những phân tích nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan.
[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, tuy nhiên bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[8] Các vấn đề khác: Đối với người đàn ông, bị cáo khai là người bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được họ tên, địa chỉ của người này nên không đề cập xử lý trong vụ án.
[9] Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 0,20 gam Heroine (là vật chứng còn lại sau giám định) do là vật cấm tàng trữ; 01 mảnh giấy bạc màu vàng; 01 mảnh nilon màu hồng; 01 mũ bảo hiểm màu bạc nhãn hiệu INDEX loại chùm đầu do không có giá trị.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, màu: đen xanh, mang biển kiểm soát: 27B1-xxxxx, có số khung: 1310FY019599; số máy: E3S1E021547; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 027232 mang tên Nguyễn Thị T là tài sản chung của bị cáo và vợ là bà Nguyễn Thị T, do là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, bà T không có chứng cứ nào chứng minh chiếc xe là tài sản riêng của bà T. Ngày 06/8/2021, bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô, vào việc phạm tội, bà T không biết nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: ½ giá trị chiếc xe mô tô kèm chìa khóa và Giấy đăng ký xe; Trả lại cho bà Nguyễn Thị T ½ giá trị chiếc xe.
[10] Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi, là thân nhân liệt sĩ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ (bị cáo là con của liệt sĩ). Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;
1. Tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc X 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 06/8/2021).
2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 0,20 gam Heroine (là vật chứng còn lại sau giám định);
01 mảnh giấy bạc màu vàng; 01 mảnh nilon màu hồng; 01 mũ bảo hiểm màu bạc nhãn hiệu INDEX loại chùm đầu.
- Tịch thu, sung ngân sách nhà nước: ½ giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, màu: đen xanh, mang biển kiểm soát: 27B1-xxxxx, có số khung:
1310FY019599; số máy: E3S1E021547; (kèm theo chìa khóa của xe và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 027232 mang tên Nguyễn Thị T đăng ký cho xe mô tô BKS 27B1-xxxxx;
- Trả lại cho bà Nguyễn Thị T: ½ giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, màu: đen xanh, mang biển kiểm soát: 27B1-xxxxx, có số khung: 1310FY019599; số máy: E3S1E021547.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/10/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/11/2021).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2021/HS-ST
Số hiệu: | 23/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về