Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 22/2023/HS-ST NGÀY 27/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/4/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 23/2023/HSST ngày 07/4/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2023/QĐXXST-HS ngày 11/4/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Mi H; Tên gọi khác: Không; sinh ngày: 25/9/2002 tại Lâm Đồng; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Đ, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Cill; Tôn giáo: Tin lành; Trình độ học vấn: Lớp 07/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Con ông Ha G, sinh năm 1960 (đã chết) và con bà Ka B, sinh năm 1974 (đã chết); Anh, chị ruột: Có 6 người, lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 2000. Bị cáo là con út trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định số 88/QĐ-XPVPHC ngày 03/4/2020, Công an huyện Đức Trọng, Lâm Đồng xử phạt 1.250.000đ về hành vi đánh nhau.

Bị cáo hiện bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đơn Dương từ ngày 06/01/2023 cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông K’win; sinh năm: 1980; Nơi cư trú: Thôn Đăng 6, xã N, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử sụng ma túy nên khoảng 9 giờ sáng ngày 06/01/2023, Mi H sử dụng điện thoại liên hệ với một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) ở thị trấn Liên Nghĩa, Đức Trọng để mua ma túy với số tiền 2.500.000đ. Sau khi thống nhất địa điểm giao ma túy thì Mi H điều khiển xe mô tô BS: 49E1 - 65721 đến khu vực Lô 90, thị trấn Liên Nghĩa, Đức Trọng gặp người đàn ông, Mi H đưa số tiền 2.500.000đ và người đàn ông đưa cho Mi H 01 túi nilon màu đen, bên trong có chứa 06 gói nilon có chứa ma túy đá. Mi H cất giấu gói nilon vào trong ví da rồi bỏ vào túi quần phía trước, bên phải rồi đi về xã Đ cắt rau thuê cho người dân. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, Mi H đang điều khiển xe mô tô đi về trên đường liên thôn thuộc thôn 2, xã Đ thì bị Cơ quan Công an huyện Đơn Dương phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật có liên quan.

Tại kết luận giám định số 26/KL-KTHS ngày 10/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lâm Đồng kết luận:

Mẫu tinh thể đựng trong sáu gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,8070g, loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 247, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Cáo trạng số 23/CT-VKSĐD ngày 07/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương truy tố bị cáo Mi H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Mi H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Mi H từ 30 đến 36 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 ví da màu đen; 01 bao gói vật chứng và số ma túy còn lại sau giám định. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A03s, màu xanh thu của Mi H.

Bị cáo không khiếu nại bản cáo trạng, khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy từ đầu tháng 12/2022, khoảng 04 đến 05 ngày sử dụng 01 lần, loại ma túy đá, hình thức sử dụng là hút. Sáng ngày 06/01/2023, bị cáo Mi H điều khiển xe mô tô đến khu vực Lô 90, thị trấn Liên Nghĩa, Đức Trọng gặp người đàn ông mua 06 gói ma túy đá với giá 2.500.000đ. Mi H cất giấu ma túy vào trong ví da rồi bỏ vào túi quần phía trước, bên phải rồi đi về xã Đ cắt rau thuê cho người dân. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, Mi H đang điều khiển xe mô tô đi về trên đường liên thôn thuộc thôn 2, xã Đ thì bị Cơ quan Công an huyện Đơn Dương phát hiện và lập biên bản bắt giữ. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Vào ngày 06/01/2023, tại khu vực đường liên thôn thuộc thôn 2, xã Đ, huyện Đơn Dương, Mi H đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,8070g, loại Methamphetamine là vi phạm pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa Mi H khai nhận việc tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với kết luận giám định, biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,8070g, loại Methamphetamine nêu trên của Mi H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất vụ án: Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy được tác hại của ma túy ảnh hưởng đến sức khỏe và cũng là nguyên nhân gây ra các bất ổn xã hội khác nhưng vì nhu cầu cá nhân nên bị cáo tàng trữ để sử dụng. Bị cáo là người nghiện ma túy đã lâu, bị cáo không tự cai nghiện mà tiếp tục tàng trữ để sử dụng ma túy. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện tu dưỡng, rèn luyện thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo.

[5] Đối với đối tượng bán ma túy cho Mi H, do chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra tách ra xác minh xử lý sau là đúng.

[6] Về vật chứng:

Đối với bao gói vật chứng trước giám định được niêm phong và mẫu vật hoàn lại sau giám định khối lượng 0,6577g ma túy, loại Methamphetamine, đây là tang vật của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 ví da (nam) màu đen mà Mi H sử dụng để cất giấu ma túy, xét thấy giá trị không lớn nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A03s, màu xanh, điện thoại trên được xác định là của Mi H sử dụng để liên lạc mua ma túy nên tịch thu sung ngân sách Nhà Nước.

Đối với 01 xe mô tô BS: 49E1 – 65721, nhãn hiệu Suzuki Satria, màu đen, qua xác minh xe mô tô trên là của ông K’Win cho Mi H mượn để đi làm, ông K’Win không biết Mi H sử dụng xe mô tô trên để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho ông K’Win là thỏa đáng.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Mi H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Mi H 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 06/01/2023.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói vật chứng trước giám định được niêm phong và mẫu vật hoàn lại sau giám định có khối lượng 0,6577g ma túy, loại Methamphetamine; 01 ví da (nam) màu đen.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A03s, màu xanh thu của Mi H.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/4/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đơn Dương.

3. Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Mi H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo. Ông K’Win có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2023/HS-ST

Số hiệu:22/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;