Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 740/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 770/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020, đối với:

- Bị cáo: Phan Nguyễn Gia L, sinh ngày 01/4/2003 tại tỉnh Đ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Phường H, thành phố B, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; họ tên cha: Không xác định được; họ tên mẹ: Phan Thị Lệ T, sinh năm 1976; gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có chồng con.

Tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 30/9/2019. Ngày 08/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B ra Quyết định hủy bỏ tạm giữ và được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Sau đó, bị cáo L bỏ trốn. Ngày 25/11/2020, L bị bắt theo quyết định truy nã. Do L có thai nên ngày 01/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B ra Quyết định hủy bỏ tạm giữ đối với L. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Nguyễn Gia L là nhân viên phục vụ làm việc tại quán Karaoke “VNC” thuộc Khu phố 5, phường D, thành phố B và là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 30/9/2019, trong lúc phục vụ khách hát karaoke tại quán VNC, L được một người khách (không rõ lai lịch) cho 01 viên ma túy tổng hợp (thuốc lắc) để sử dụng, L nhận viên ma túy rồi cất giấu vào trong chiếc túi xách của L.

Đến khoảng 01 giờ 45 phút cùng ngày, khi L mang chiếc túi xách có chứa viên ma túy nêu trên đến quán karaoke H, địa chỉ: Số 72, Tổ 20, Khu phố 5, phường D, thành phố B để phục vụ khách hát karaoke tại phòng VIP 3 thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Công an phường D kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng tang vật, chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý.

Vật chứng gồm: 01 (một) viên nén màu xanh hình tròn có răng cưa được cất giấu bên trong chiếc túi xách màu đen đã được niêm phong, có chữ ký của Phan Nguyễn Gia L và hình dấu mộc của Công an phường D, thành phố B.

Tại Kết luận giám định số 1176/KLGĐ-PC09 ngày 07/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận: “Mẫu 01 viên nén hình tròn màu xanh có răng cưa được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,3468 gam, loại MDMA” .

Tại Cáo trạng số: 01/CT-VKSBH ngày 01/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ đã truy tố bị cáo Phan Nguyễn Gia L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

- Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249 và Điểm s, Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Phan Nguyễn Gia L từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù.

- Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa, bị cáo Phan Nguyễn Gia L thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào lúc 01 giờ 45 phút cùng ngày, tại phòng VIP 3 quán karaoke Hg, địa chỉ: Khu phố 5, D, thành phố B, tỉnh Đ, Phan Nguyễn Gia L có hành vi tàng trữ trái phép 0,3468 gam ma túy loại MDMA thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Công an phường Trảng Dài kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Phan Nguyễn Gia L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 01/CT-VKSBH ngày 01/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Phan Nguyễn Gia L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

- Theo giấy khai sinh cấp ngày 15/4/2003 của Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Đ cấp cho Phan Nguyễn Gia L thể hiện: Phan Nguyễn Gia L sinh ngày 01/4/2003. Như vậy, tại thời điểm phạm tội ngày 30/9/2019, bị cáo L được xác định là 16 tuổi 05 tháng 29 ngày. Do đó, cần áp dụng quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét khi lượng hình đối với bị cáoL.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Phan Nguyễn Gia L để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của pháp luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về các vấn đề khác:

Đối với đối tượng (chưa rõ lai lịch) có hành vi cho L ma túy, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

[4] Về vật chứng:

- Vật chứng được kết luận là ma túy thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố B thu giữ sau giám định.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phan Nguyễn Gia L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

tòa:

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên - Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị mức hình phạt là phù hợp quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Nguyễn Gia L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249, Điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Phan Nguyễn Gia L 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án, trừ đi số ngày tạm giam từ ngày 30/9/2019 đến ngày 08/10/2019 và từ ngày 25/11/2020 đến ngày 01/12/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng ma túy còn lại sau giám định là 01 (một) gói niêm phong số 1176/KLGĐ-PC09 ngày 07/10/2019.

Các vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố B, tỉnh Đ theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29 tháng 12 năm 2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phan Nguyễn Gia L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Bị cáo Phan Nguyễn Gia L được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2021/HS-ST

Số hiệu:22/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;