TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 21/2023/HS-ST NGÀY 14/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 3 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2023, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:
Phạm Ngọc Q, sinh ngày 25/8/1979 tại xã Tr, huyện Qu, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn A Mễ, xã Tr, huyện Qu, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Huy M, đã chết và bà Bùi Thị S, sinh năm 1945, bà S được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba; có vợ là: Bùi Thị H, sinh năm 1987 và 03 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 23/11/2022 đến ngày 29/11/2022 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình (có mặt).
Người chứng kiến:
1. Anh Trần Văn Q1, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ X, phường K, thành phố Th, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).
2. Chị Dương Thị M1, sinh năm 1992, nơi cư trú: Tổ X1, phường K, thành phố Th, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 10 giờ 30 phút ngày 23/11/2022, tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình làm nhiệm vụ tại đường thuộc tổ X3, thị trấn C, huyện Qu, phát hiện Phạm Ngọc Q đi bộ có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu đứng lại. Phạm Ngọc Q đã tự nguyện cầm 01 gói nhỏ vỏ ngoài là giấy tráng kim màu trắng bên trong có chứa cục chất bột màu trắng giấu ở túi quần trước bên trái đang mặc ra giao nộp. Phạm Ngọc Q khai là gói ma túy, loại Heroine, để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã yêu cầu Q về Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình làm việc. Tại đây, kiểm tra người Quỳnh không phát hiện, thu giữ được gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý niêm phong gói vật chứng.
Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Ngọc Q không phát hiện, thu giư gi.
Bản kết luận giám định số 438/KL-KTHS(MT) ngày 24/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, xác định: “Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,3549 gam (không phẩy ba nghìn năm trăm bốn mươi chín gam). Heroine STT: 09, Danh mục IA phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính Phủ”.
Bản cáo trạng số 24/CT-VKSQP ngày 20/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Phạm Ngọc Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Phạm Ngọc Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo tư 01 năm 06 tháng đên 01 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/11/2022; không ap dung hinh phạt bổ sung là phạt tiền đôi vơi bi cao . Ngoài ra còn đề nghị về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm và các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Thái Bình, Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo đủ tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa bị cáo khai, Do nghiện ma túy nên 10 giờ ngày 23/11/2022, bị cáo đi bộ từ nhà tới cầu M2, thị trấn C1, huyện Qu hỏi mua của một nam thanh niên khoảng 25 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 01 gói ma túy có vỏ ngoài là giấy tráng kim màu trắng với số tiền 200.000 đồng. Bị cáo giấu gói ma tuý trong túi quần trước bên trái đi về phía tổ X3, thị trấn C, huyện Qu tìm chỗ vắng sử dụng thì bị phát hiện. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và đươc chưng minh băng cac tài liệu , chưng cư : Biên bản bắt người phạm tội quả tang va b iên bản quản lý, niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình lập cùng ngày 23/11/2022; biên ban ghilời khai của những người chứng kiến; bản kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Do đó có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 30 phút ngày 23/11/2022, tại đường tổ X3, thị trấn C1, huyện Qu, tỉnh Thái Bình, Phạm Ngọc Q có hành vi giấu trái phép trong túi quần trước bên trái 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,3549 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tôi pham và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...
Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ truy tố và kết luận bị cáo Phạm Ngọc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt đời sống kinh tế cũng như đạo đức xã hội, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo hiêu được tác hại của ma túy và biết rõ pháp luật nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện , vì vậy bi cao phải chịu mức án tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sựvà nhân thân: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra , truy tô va tai phiên toa bi cao khai bao trung thưc toan bô hanh vi pha m tôi , do đo bi cao đươc hương tinh tiêt giam nhe trach nhiêm hinh sư “ Ngươi pham tôi thanh khân khai bao ” theo quy đinh tai điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo có mẹ đẻ là người có công, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến, do đó bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đa phân tich trên thây cân thiêt ap dụng hình phạt tù có thời hạn , cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, như mưc an đai diên Viên kiêm sat đê nghi để cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
[6] Về hình phạt bổ sung : Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thi bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền . Tuy nhiên , theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo tang tr ữ ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân , bị cáo lao động tự do thu nhập không ổn đinh, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo, do đó cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.
[8] Về xử lý vật chứng: Sô ma túy cơ quan điêu tra thu giư cua bi cao đươc giám định kết luận là ma túy, loại heroine và hoàn trả mẫu vật sau giám định. Xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, do đó cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo Phạm Ngọc Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23 tháng 11 năm 2022.
- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,3257 gam (không phẩy ba nghìn hai trăm năm mươi bảy gam) mâu gưi giam đinh và toàn bộ bao gói quản lý của Phạm Ngọc Q trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 438/KL-KTHS(MT) của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.
Vật chứng trên đang được chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện và chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 21/02/2023.
- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Ngọc Q phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Quyền kháng cáo: Áp dụng các điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 21/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 21/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/03/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về