Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

- Lê Minh T, tên gọi khác: Không có; Sinh năm 1994, tại huyện CtA, tỉnh Hậu Giang. Nơi cư trú: Ấp NP2, xã NNA, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn D, sinh năm 1966 (chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1969; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không có, tiền sự: Không có; nhân thân: Trong năm 2011 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng” theo Quyết định số 16/QĐ.CAX ngày 02/01/2011 của Công an xã Nhơn Nghĩa A; bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 06 tháng theo Quyết định số 07/QĐ-UB ngày 17/02/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Nhơn Nghĩa A; bị áp dụng biện pháp đưa đối tượng vào trường giáo dưỡng theo Quyết định số 3443/QĐ-UBND ngày 07/7/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân huyện Châu Thành A thời hạn 18 tháng. Bị cáo đang bị tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Nguyễn Văn Bé T, địa chỉ: Ấp NT2, xã NN, huyện PĐ, thành phố Cần Thơ – Vắng mặt.

Trương Thanh B, địa chỉ: Ấp 2A, thị trấn BN, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.

Võ Chí C, địa chỉ: Ấp 4A, xã TH, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.

Hồ Thiện T, địa chỉ: Ấp NTA, xã NNA, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.

Nguyễn Phước T, địa chỉ: Ấp NT2, xã NN, huyện PĐ, thành phố Cần Thơ – Vắng mặt.

Nguyễn Thành Đ, địa chỉ: Ấp NT, xã NNA, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang- Vắng mặt.

Nguyễn S, địa chỉ: Ấp TT, thị trấn MN, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang - Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Mai Văn H, địa chỉ: Ấp 1A, xã TH, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.

mặt.

Lê Thành S, địa chỉ: Ấp 1A, xã TH, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 10/02/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – kinh tế Công an huyện Châu Thành A kết hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội – Công an huyện Châu Thành A, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh Hậu Giang, Công an xã Tân Hòa tiến hành tuần tra trên tuyến lộ 931B, thuộc ấp 1A, xã Tân Hòa, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Khi tổ tuần tra đi đến nhà trọ B tại ấp 1A, xã Tân Hòa, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang thì phát hiện bị cáo Lê Minh T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 95M1-xxxx đang đứng trước cửa nhà trọ có biểu hiện nghi vấn nên tổ tuần tra tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác bên trái của bị cáo T đang mặc có 01 tẩu thủy tinh dùng để sử dụng ma túy và trong túi quần bên trái của bị cáo T có 01 bịch nilon trong suốt được hàn kín, bên trong có chứa các chất tinh thể rắn nghi là ma túy. Lực lượng công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong tang vật.

Quá trình điều tra, bị cáo T khai nhận như sau: Vào khoảng 12 giờ ngày 10/02/2020, khi đang ở nhà thì anh Hồ Thiện T điện thoại kêu T đi mua ma túy giùm bạn của T để sử dụng. Vì vậy, bị cáo T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 95M1-xxxx đến nhà trọ B và đi vào phòng trọ số 09 gặp T và bạn của T. Bạn của T đưa cho T 700.000đồng để mua ma túy, sau đó bị cáo T chạy xe đến nhà TTB tại ấp 2A, xã Tân Hòa, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang do anh Trương Thanh B làm chủ để mua ma túy. Trên đường đi, T ghé cây xăng ở Bốn Ngàn đổ 20.000đồng xăng, ghé quán C uống cà phê hết 20.000đồng. Khi đến nhà Trương Thanh B, bị cáo T gặp anh Võ Chí C hỏi mua 500.000đồng ma túy và tẩu thủy tinh dùng để sử dụng ma túy. Anh C vào nhà B lấy 01 bịch ma túy và 01 cái tẩu thủy tinh đưa cho T, T trả cho C 600.000đồng, còn dư 50.000đồng C không trả lại cho T. Sau khi mua ma túy, T lấy tẩu thủy tinh bỏ vào túi áo khoác bên trái, bỏ bịt ma túy vào túi quần phía trước bên trái và điều khiển xe về nhà trọ B, khi dừng xe trước cửa nhà trọ thì bị Công an phát hiện và bắt quả tang cùng tang vật.

Qua làm việc, đối chất giữa bị cáo T với Hồ Thiện T, Trương Thanh B, Võ Chí C thì anh T không thừa nhận việc nhờ T mua giùm ma túy cho bạn của T, không thừa nhận việc thuê phòng trọ số 09 tại nhà trọ B vào ngày 10/02/2020. Anh Trương Thanh B và Võ chí C không thừa nhận có bán ma túy cho bị cáo T.

Bà Lâm Thị S là chủ nhà trọ B xác định vào ngày 10/02/2020 không có khách thuê phòng trọ số 09.

Tại Bản kết luận giám định số 10/KLGĐ-PC09(MT) ngày 12/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hậu Giang đã kết luận: Mẫu tinh thể trong suốt chứa trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,40388 gam, loại Methamphetamin.

Tại Cáo trạng số 20/CT-VKS-HCTA ngày 28 tháng 4 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A đã truy tố bị cáo Lê Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; phân tích hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đề nghị áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Minh T từ một năm đến hai năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/02/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Bé T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì liên quan đến xe mô tô biển kiểm soát 95M1-xxxx nên không đặt ra xem xét.

Vật chứng trong vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 10/2020 ngày 12/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hậu Giang có chữ ký người chứng kiến Đặng Thị Phương Loan và cán bộ điều tra Lê Hoàng Mến có chứa 0,33584 gam ma túy sau giám định.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) tẩu thủy tinh đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Itel, số IMEI: 351980107028233 đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động màu trắng bạc, đã qua sử dụng, bị bể màn hình; 01 (một) áo khoác màu đen đã qua sử dụng.

- Tiền Việt Nam 60.000đồng (Sáu mươi ngàn đồng) không xác định được chủ sở hữu nên đề nghị tịch thu sung quỹ.

Quá trình điều tra, bị cáo T khai mua ma túy từ Võ Chí C tại nhà Trương Thanh B 10 lần và đã sử dụng hết. Tuy nhiên quá trình điều tra anh C và B không thừa nhận có bán ma túy cho T nên chưa đủ căn cứ xử lý đối với hai đối tượng này. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Châu Thành A sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Việc khởi tố, điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A, việc truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngày 10/02/2020, lực lượng Công an tiến hành việc bắt người phạm tội quả tang về hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy” đến ngày 13/02/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can Lê Minh T về hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, qua quá trình điều tra, xác minh, làm rõ xác định hành vi của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự nên ngày 13/4/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A đã thay đổi quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can từ hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy” thành “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là phù hợp với quy định tại Điều 156 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trương Thanh B, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Văn Bé T, Nguyễn Phước T, Nguyễn S vắng mặt có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, Võ Chí C, Hồ Thiện T, người làm chứng Mai Văn H, Lê Thành S vắng mặt không rõ lý do dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai và quá trình điều tra đã có lời khai. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt đối với những người này.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về hành vi phạm tội: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Minh T đều thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Quá trình điều tra, bị cáo T cho rằng mua ma túy giùm bạn của Hồ Thiện T từ Võ Chí C tại nhà của Trương Thanh B, tuy nhiên T không thừa nhận việc nhờ bị cáo mua ma túy giùm bạn của T. C không thừa việc bán ma túy cho bị cáo T, B cũng không thừa nhận việc giao ma túy cho C bán cho T, đồng thời không có chứng cứ nào khác để chứng minh lời khai của bị cáo T về nội dung này. Vì vậy, chỉ chứng minh được như sau: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 10/02/2020, tại nhà trọ HB, ấp 1A, xã TH, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang, bị cáo Lê Minh T đã bị bắt quả tang về hành vi cất giấu 0,40388 gam, loại Methamphetamin.

Methamphetamin là chất ma tý thuộc danh mục các chất ma túy theo quy định tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định danh mục chất ma túy và tiền chất.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất mà túy. Vì vậy, hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất mà túy mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng”; bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 06 tháng; bị áp dụng biện pháp đưa đối tượng vào trường giáo dưỡng thời hạn 18 tháng nhưng bị cáo không sửa đổi mà tiếp tục vi phạm. Vì vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[2.2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Vì vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Đối với Võ Chí C và Trương Thanh B, quá trình điều tra chưa chứng minh được có bán ma túy cho bị cáo T nên kiến nghị cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[2.3] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn Bé T và Nguyễn Phước T không có yêu cầu gì liên quan đến xe mô tô biển kiểm soát 95M1-xxxx nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.4] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

- Đối với 01 (một) xe mô tô wave 110S biển kiểm soát 95M1-xxxx: Quá trình điều tra chứng minh được đây là xe của ông Nguyễn Văn Bé Tám, do con trai là Nguyễn Phước T lấy cho bị cáo T mượn. Ông T và T đều không biết việc bị cáo T dùng xe đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý vật chứng trả lại xe cho ông T. Việc Cơ quan cảnh sát điều tra giao trả xe mô tô wave 110S biển kiểm soát 95M1-xxxx cho ông T là phù hợp nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- 01 (một) phong bì niêm phong số 10/2020 ngày 12/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hậu Giang có chữ ký người chứng kiến Đặng Thị Phương Loan và cán bộ điều tra Lê Hoàng Mến có chứa 0,33584 gam ma túy (Khối lượng còn lại sau giám định), loại Methamphetamin và 01 (một) tẩu thủy tinh đã qua sử dụng tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Itel, số IMEI: 351980107028233 đã qua sử dụng và 01 (một) điện thoại di động màu trắng bạc, đã qua sử dụng, bị bể màn hình, 01 (một) áo khoác màu đen đã qua sử dụng là của bị cáo, không chứng minh được có liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Tiền Việt Nam 60.000đồng (Sáu mươi ngàn đồng) không xác định được chủ sở hữu nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[2.5] Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A là có căn cứ, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Xử phạt bị cáo Lê Minh T 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt là ngày 10/02/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Minh T 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày xét xử sơ thẩm 30 tháng 6 năm 2020.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu để tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 10/2020 ngày 12/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hậu Giang có chữ ký người chứng kiến Đặng Thị Phương Loan và cán bộ điều tra Lê Hoàng Mến có chứa 0,33584 gam ma túy (Khối lượng còn lại sau giám định), loại Methamphetamin và 01 (một) tẩu thủy tinh đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Itel, số IMEI: 351980107028233 đã qua sử dụng và 01 (một) điện thoại di động màu trắng bạc, đã qua sử dụng, bị bể màn hình; 01 (một) áo khoác màu đen đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước tiền Việt Nam là 60.000đồng (Sáu mươi ngàn đồng).

3. Về trách nhiệm dân sự: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

4. Về án phí: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Minh T phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan tới quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2020/HS-ST

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;