Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 16/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2020/TLST- HS ngày 12 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2020 và thông báo chuyển ngày xét xử số: 02/2020/TB-TA ngày 30 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Triệu Văn N, tên gọi khác: Không; sinh ngày 19 tháng 11 năm 1984, tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Nà L, xã B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 1/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Văn P và bà Phùng Thị D (đã chết); vợ: Chu Thị Sình; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Không có án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính, không bị xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 04/12/2019 cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Triệu Quyết T, sinh năm 1986. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn N, xã Bắc H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn.

- Người chứng kiến: Anh Liễu Thành G, sinh năm 1991. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Triệu Văn N là đối tượng nghiện hút chất ma túy. Khoảng 09 giờ ngày 04/12/2019, Triệu Văn N một mình điều khiển xe mô tô BKS 12F6 – xxxx đi từ thôn N Trong đến cửa khẩu T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Đến cửa khẩu T, Triệu Văn N để xe ở chân đồi K thuộc thôn N, xã T rồi một mình đi bộ lên đỉnh đồi gặp một người đàn ông Trung Quốc khoảng 30 tuổi (N không biết họ tên, địa chỉ) hỏi mua 02 (hai) gói ma túy hết 200.000 (hai trăm nghìn) đồng. Sau khi mua được, Triệu Văn N cất 02 (hai) gói ma túy vào trong bao thuốc lá Thăng Long và cho bao thuốc lá vào túi quần đằng trước bên trái đang mặc trên người rồi đi bộ theo đường mòn cũ quay lại lấy xe mô tô trở về nhà. Khi Triệu Văn N điều khiển xe mô tô về đến đoạn đường thuộc thôn T, xã T (nay là xã B) thì bị Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng kiểm tra phát hiện trong túi quần đằng trước bên trái đang mặc của Triệu Văn N có 02 (hai) gói nhựa màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy được cất giấu trong bao thuốc lá Thăng Long. Tổ công tác đã đưa Triệu Văn N cùng tang vật về trụ sở Uỷ ban nhân dân xã T (nay đổi thành xã B), huyện V, tỉnh Lạng Sơn lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tang vật thu giữ: 02 (hai) gói nhựa màu trắng bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy Heroine được niêm phong trong 01 (một) phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Triệu Văn N”;

Tạm giữ:

01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HALIM DREAM cũ đã qua sử dụng, biển kiểm soát 12F6-xxxx; 01 bao thuốc lá nhãn hiệu “THĂNG LONG” bên trong có 12 điếu thuốc lá.

Tại bản kết luận giám định số 10/KL-PC09 ngày 06/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 02 (hai) gói nhựa màu trắng thu giữ của Triệu Văn N gửi giám định đều là chất ma túy heroine, có tổng khối lượng 0,103 gam Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Triệu Văn N khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xử cho mức án thấp nhất.

Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi đã bán ma túy cho bị cáo Triệu Văn N ngày 04/12/2019, do bị cáo không cung cấp được họ tên, địa chỉ nên không thể xác minh làm rõ được.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HALIM DREAM cũ đã qua sử dụng, biển kiểm soát 12F6-xxxx, quá trình điều tra xác định chiếc xe này thuộc sở hữu của Triệu Quyết T sinh năm 1985 trú tại thôn N, xã B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 04/12/2019 Triệu Văn N mượn xe mô tô của anh T bảo đi chợ mua rau, anh T không biết việc Triệu Văn N mượn xe mô tô của mình để đi mua ma túy về sử dụng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa anh Triệu Quyết T xin Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HALIM DREAM, biển kiểm soát 12F6-xxxxcho anh T.

Đối với vật chứng vụ án Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, đã ra Quyết định chuyển vật chứng thu được đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Lãng tỉnh Lạng Sơn.

Tại Bản Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 12 tháng 3 năm 2020, của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Triệu Văn N ra trước Toà án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Triệu Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù giam.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bản thân bị cáo nghiện ma túy, gia đình thuộc hộ nghèo, không sở hữu tài sản gì, sống cùng bố mẹ.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT TRIỆU VĂN N “.

- 01 (một) bao thuốc lá “THĂNG LONG”, bên trong có 12 (mười hai) điếu thuốc lá.

- Trả cho anh Triệu Quyết T, 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HALIM DREAM đã qua sử dụng, biển kiểm soát 12F6-xxxx.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, đồng thời hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt quả tang, biên bản thu giữ đồ vật, phù hợp với các tài liệu khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Hồi 11 giờ 10 phút ngày 04/12/2019, tại đoạn đường thuộc thôn T, xã T (nay là xã B), huyện V, tỉnh Lạng Sơn, Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng đang làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang Triệu Văn N đang có hành vi tàng trữ 02 (hai) gói nhựa màu trắng bên trong chứa chất ma túy Heroine có tổng khối lượng 0,103 gam (đã trừ bì), với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của Triệu Văn N thuộc trường hợp nghiêm trọng, được quy định trong Bộ luật Hình sự nên phải bị xử lý trước pháp luật. Tại Bản kết luận giám định số 10/KL-PC09 ngày 06/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 02 gói nhựa màu trắng thu giữ của Triệu Văn N gửi giám định đều là chất ma túy heroine, có tổng khối lượng 0,103 gam (đã trừ bì). Như vậy hành vi của bị cáo Triệu Văn N đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nhận thấy Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Triệu Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây nguy hại đến trật tự, an ninh xã hội. Hành vi mà bị cáo đã thực hiện nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội về nhiều mặt, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo bị nhân dân lên án mạnh mẽ và bị pháp luật nghiêm cấm. Hành vi của bị cáo gây ra cần phải bị xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, mới có thể giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân: Bị cáo Triệu Văn N là người đã trưởng thành, có thể chất phát triển bình thường, đã có vợ và 02 con nhưng không chịu tu dưỡng làm ăn mà sớm lao vào tệ nạn xã hội, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện. Mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân; tiền án, tiền sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, thuộc hộ nghèo, không sở hữu tài sản gì, sống cùng bố mẹ (thể hiện tại biên bản xác minh ngày 20/02/2020 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện V, tỉnh Lạng Sơn). Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi đã bán ma túy cho bị cáo Triệu Văn N ngày 04/12/2019, do bị cáo không cung cấp được họ tên, địa chỉ nên không thể xác minh làm rõ được. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[9] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HALIM DREAM cũ đã qua sử dụng, biển kiểm soát 12F6-xxxx, quá trình điều tra xác định chiếc xe này thuộc sở hữu của Triệu Quyết T, ngày 04/12/2019 bị cáo Triệu Văn N mượn xe mô tô tô của Triệu Quyết T bảo đi chợ mua rau, do dó Triệu Quyết T không biết việc bị cáo Triệu Văn N mượn xe mô tô của mình để đi mua ma túy về sử dụng. Ngày 17/02/2020 Triệu Quyết T có đơn xin lại chiếc xe, tại phiên tòa anh Triệu Quyết T xin Hội đồng xét xử được trả lại chiếc xe cho anh T. Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Triệu Quyết T là chủ sở hữu hợp pháp.

[10] Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT TRIỆU VĂN N “; 01 (một) bao thuốc lá “THĂNG LONG”, bên trong có 12 (mười hai) điếu thuốc lá; trả cho anh Triệu Quyết T, 01 (một) xe mô tô nhãn hiêu HALIM DREAM đã qua sử dụng, biển kiểm soát 12F6-xxxx.

[11] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, đề nghị về mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; xử lý vật chứng. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ, nên được chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo Triệu Văn N phải chịu án phí hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[13] Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm c khoản 1, 2 Điều 47; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136, Điều 331, 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Triệu Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Triệu Văn N 01 (một) năm tù giam, thời hạn tính từ ngày 04/12/2019.

2. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

3. Xử lý vật chứng:

3.1 Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT TRIỆU VĂN N “; 01 (một) bao thuốc lá “THĂNG LONG”, bên trong có 12 (mười hai) điếu thuốc lá.

3.2 Trả cho anh Triệu Quyết T, 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HALIM DREAM đã qua sử dụng, biển kiểm soát 12F6-xxxx.

(Vật chứng trên hiện được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn theo nội dung biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/3/2020).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Triệu Văn N phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp Ngân sách Nhà nước.

5. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2020/HS-ST

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;