TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN – TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 15/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15/7/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2019/HSST ngày 05/6/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/QĐXXST- HS, ngày 03/7/2019, đối với bị cáo:
Nông Văn H - Sinh ngày 17/02/1984, tại Bắc Kạn;
Nơi cư trú: Thôn C, xã N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không ; quốc tịch: Việt nam; con ông Nông Văn B (đã chết) và bà H Thị K; có vợ là Trần Thị Y và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 09/4/2019 đến ngày 18/4/2019 được tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 20h30’ ngày 08/4/2019, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Kạn phối hợp với Công an xã N, thành phố Bắc Kạn làm nhiệm vụ tại đoạn đường liên thôn thuộc thôn K, xã N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn thì phát hiện và bắt quả tang Nông Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi áo bên trái đang mặc trên người của H 01 gói nhỏ được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt có các chữ số bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1; 01 xe mô tô kiểu nhãn hiệu Wave màu xanh BKS 97F2- 14xx; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung có viền màu trắng, ốp lưng màu đen, loại máy cảm ứng đã cũ. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nông Văn H thu giữ một đăng ký xe mô tô BKS 97F2-14xx mang tên Thái Thị T.
Ngày 09/4/2019 tiến hành mở, đóng niêm phong cân xác định vật chứng thu giữ của Nông Văn H xác định: Chất màu trắng dạng cục thu giữ của Nông Văn H niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 có khối lượng là 0,32g (không phẩy ba mươi hai gam), niêm phong trong phong bì ký hiệu B1 để trưng cầu giám định.
Tại Cơ quan điều tra Nông Văn H khai nhận: Khoảng 20h00’ ngày 08/4/2019 H điều khiển xe mô tô BKS 97F2-14xx từ nhà đi ra ngã ba thôn K, xã N, thành phố Bắc Kạn với mục đích mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến nơi thì gặp một người đàn ông (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) có đặc điểm giống với người nghiện ma túy, nên H hỏi mua ma túy, người đàn ông đó đồng ý bán cho H 01gói ma túy (hê rô in) với số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), khi mua được ma túy H điều khiển xe mô tô về nhà, khi đến khu vực đường liên thôn thuộc thôn K, xã N thì bị Công an bắt cùng vật chứng.
Tại kết luận giám định số 68/KTHS-MT, ngày 12/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng có trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại heroin, có khối lượng là 0,32g (Không phẩy ba hai gam).
Với các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 10/CT-VKSBK-P1, ngày 03/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Nông Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Điều luật có nội dung:
1, Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù một năm đến năm năm.
a,… c, Heroine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nông Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS, xử phạt bị cáo Nông Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn thi hành án tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/4/2019 đến ngày 18/4/2019.
Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra bị cáo không có công việc, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng đảm bảo thi hành án nên không đề nghị áp dụng.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ký hiệu A2 đã cắt mở niêm phong, 02 phong bì ký hiệu B2 và T68 còn nguyên dấu niêm phong; tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe mô tô kiểu xe Wave màu xanh gắn BKS 97F2-14xx; tạm giữ 01 điện thoại Samsung màn hình cảm ứng đã qua sử dụng để đảm bảo thi hành án; chuyển 01giấy đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Thái Thị T cho tiếp tục lưu trữ theo hồ sơ vụ án.
Về án phí: Đề nghị áp dụng Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Quá trình tranh luận bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và bị cáo nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 08/4/2019 Nông Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là Heroine có khối lượng là 0,32g (Không phẩy ba hai gam) với mục đích để bản thân sử dụng, không nhằm mục đích để mua bán. Do đó hành vi của Nông Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nông Văn H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.
Tổng hợp các chứng cứ lại, đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Nông Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và không phải chịu một tình tiết tăng nặng nào, được hưởng một tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.
[3] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản và nguồn thu nhập nào, khi áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền thì không có tính khả thi. Vì vậy không áp dụng đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng:
Cần tịch thu tiêu hủy những vật không có giá trị sử dụng gồm: 03 phong bì ký hiệu A2, B2 và T68 còn nguyên dấu niêm phong; tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe mô tô kiểu xe Wave màu xanh, trên thân xe có ghi dòng chữ CPI TAIWAN có số khung VKDBCH013K00014xx, số máy 153FMH*02K014xx* xe đã qua sử dụng, là phương tiện sử dụng vào việc phạm tội; tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung loại máy cảm ứng, có số IMEL 359656061627747/xx và 359657061627745/xx, bên trong máy có lắp 02 sim trong đó 01 có số thuê bao 08346574xx và 01 sim chưa rõ số thuê bao.
Còn đối với 01 đăng ký xe mô tô, xe máy có số 00002xx mang tên Thái Thị T, địa chỉ phường S, TX B, Bắc Kạn. Cấp ngày 26/12/2001. Biển số 97F2-14xx. Có số khung MG110280101xx, số máy 1P53FMH102743xx và 01 biển kiểm soát mô, tô xe máy 97F2- 14xx. Qua xem xét thấy giấy đăng ký trên có số khung, số máy không trùng khớp với chiếc mô tô mà bị cáo H sử dụng vào việc phạm tội, do đó cần chuyển cho Công an thành phố Bắc Kạn xử lý theo thẩm quyền. (Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an tỉnh Bắc Kạn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn ngày 05/6/2019).
[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập: Các hành vi, quyết định tố tụng và các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.
[7] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Nông Văn H, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người này, nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xác minh, làm rõ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1, Tuyên bố: Bị cáo Nông Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51/ Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nông Văn H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 09/4/2019 đến ngày 18/4/2019.
2,Về vật chứng:
- Áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS.
+ Tịch thu tiêu hủy 03 phong bì ký hiệu A2, B2 và T68 còn nguyên dấu niêm phong;
+ Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe mô tô kiểu xe Wave màu xanh, trên thân xe có ghi dòng chữ CPI TAIWAN có số khung VKDBCH013K00014xx, số máy 153FMH*02K014xx* xe đã qua sử dụng.
+ Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung loại máy cảm ứng, có số IMEL 359656061627747/xx và 359657061627745/xx, bên trong máy có lắp 02 sim trong đó 01 có số thuê bao 08346574xx và 01 sim không rõ số thuê bao để đảm bảo thi hành án.
+ Chuyển cho Công an thành phố Bắc Kạn để xử lý theo thẩm quyền 01 đăng ký xe mô tô, xe máy có số 00002xx mang tên Thái Thị T, địa chỉ S, TX B, Bắc Kạn, cấp ngày 26/12/2001, biển số 97F2-14xx, có số khung MG110280101xx, số máy 1P53FMH102743xx và 01 biển kiểm soát mô tô, xe máy 97F2- 14xx.
(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an tỉnh Bắc Kạn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn ngày 05/6/2019) 3, Về án phí:
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nông Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự” Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 21/2019/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 21/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/07/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về