Bản án 20/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 20/2024/HS-ST NGÀY 16/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2024 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2024/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:

Trần Văn C, tên gọi khác: Không; sinh ngày 02/7/1970 tại Thái Nguyên; nơi cư trú: Xóm B (Nghị quyết 206/NQ-HĐND ngày 10/12/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh T sát nhập xóm B và xóm T thành xóm B), xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/10; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Trần Xuân H, sinh năm 1940 và con bà Ngô Thị B, sinh năm 1952; bị cáo có vợ là Lê Thị S, sinh năm 1971; Có 02 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: 01. Tại bản án số 70/2012/HSST ngày 16/8/2012, Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã chấp hành xong.

Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T. Bị cáo bị bắt từ ngày 20/12/2023 cho đến nay (Có mặt)

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Đức M, sinh năm 1990, nơi cư trú: Xóm P, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/12/2023, tổ công tác Công an xã B, huyện P đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm P, xã B thì phát hiện một người đàn ông đang đứng một mình tại bờ ruộng thuộc xóm P có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông khai tên là Trần Văn C và tự giác lấy từ trong lòng bàn tay trái ra 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (C khai là ma túy Heroine) do C mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P phối hợp với phòng K Công an tỉnh T tiến hành mở niêm phong cân xác định: Chất bột màu trắng thu giữ của C có khối lượng 0,658 gam, lấy toàn bộ cho vào 01 bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 67/KL-KTHS ngày 28/12/2023 của phòng K Công an tỉnh T kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine (H), có tên khoa học là D, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất; Khối lượng thu giữ ban đầu là 0,658 gam.

Tại cơ quan điều tra, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến.

* Vật chứng của vụ án: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong có chứa 0,642 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu.

Cáo trạng số 23/CT-VKSPB ngày 12 tháng 3 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình đã truy tố bị cáo C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 20/12/2023, C đi bộ một mình từ nhà đến khu vực xóm P, xã B, huyện P mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, C gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa 02 gói ma túy loại Heroine với giá 300.000 đồng. C cầm gói giấy bạc trên trong lòng bàn tay trái rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi đang đứng tại khu vực bờ mộng thuộc xóm P thì bị tổ công tác Công an xã B phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo C từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

* Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong có chứa 0,642 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu.

* Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Căn cứ lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/12/2023 tại khu vực xóm P, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, Trần Văn C là người nghiện ma túy đang có hành vi tàng trữ 0,658 gam chất ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an xã B phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Nội dung điều 249 BLHS quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a,b...

c, H1,... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam... ” Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy không chỉ làm suy kiệt kinh tế và sức lao động mà nó còn có thể làm hạn chế hoặc mất đi khả năng điều khiển hành vi của con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy đã bị Tòa án xét xử về tội ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo, cần xét xử bị cáo với mức án nghiêm khắc phù hợp với hành vi bị cáo gây ra, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua ma túy về sử dụng không có mục đích hưởng lợi, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu A1, bên ngoài bì thư có ghi hoàn trả 0,642 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói.

[7] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các vấn đề khác: Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

2. Áp dụng điều luật và mức hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS: Xử phạt bị cáo 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2023.

Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn được dán kín có dấu đỏ ký hiệu A1, bên ngoài bì thư có ghi hoàn trả 0,642 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/3/2024 giữa Công an huyện P và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên).

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;