Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 20/2021/HSST NGÀY 15/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tô Ánh D Tên gọi khác: Không Sinh ngày: 06/3/1986 tại Đ.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 11/12 PT; Con ông: Tô Thanh H và con bà Trần Thị P; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: không, tiền sự: 02 tiền sự (bị Tòa án nhân dân thành phố Đ: Năm 2018 Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc vào năm 2016 với thời hạn là 24 tháng) bị cáo đã chấp hành xong quyết định này nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; Nhân thân: Năm 2015 04 lần bị Công an phường T, thành phố Đ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong năm 2018 01 lần bị phạt cảnh cáo và 01 lần bị phạt tiền. (Bị cáo chưa nộp tiền phạt, nhưng cho đến nay đã hết thời hiệu được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính). Bị tạm giữ từ ngày 21/7/2021 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 20/7/2021, tổ công tác Công an phường T, thành phố Đ đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố X, phường T, phát hiện tại số nhà X, tổ dân phố X, cổng mở, cửa nhà khép hờ, điện bật sáng, nhạc mở to. Nhìn qua cổng và khe cửa nhà phát hiện Tô Ánh D có hành vi đang chuẩn bị sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác áp sát, phát hiện ở dưới mặt ghế bên tay phải của D có 01 điếu tự chế bằng chai nhựa, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc đã bị cháy đen một phần, trên mảnh giấy bạc có 01 viên nén màu hồng. Bên cạnh mảnh giấy bạc có 1 gói nilon màu trắng trong suốt bên trong có 03 viên nén màu hồng (trên một mặt của mỗi viên đều có ký hiệu WY). Tô Ánh D khai nhận các viên nén màu hồng là ma túy (hồng phiến), D mua về để sử dụng cho bản thân.

Quá trình điều tra Tô Ánh D khai nhận: Vào khoảng 16 giờ 30 ngày 20/7/2021 bị cáo một mình điều khiển chiếc xe mô tô Arblade BKS 27B1 – 43XX (tự ý lấy của bố mình) xuống khu vực Bản X, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên gặp và mua của người đàn ông không quen biết được 05 viên hồng phiến với giá 150.000 đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo cất giấu trong lòng bàn tay trái của mình rồi điều khiển xe về nhà, bị cáo đã sử dụng hết 01 viên, 03 viên còn lại để ở mặt ghế cạnh chỗ ngồi của mình, 01 viên bị cáo để trên mảnh giấy bạc đang chuẩn bị sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 04 viên nén màu hồng khối lượng 0,4 gam; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh giấy bạc đã bị cháy đen một phần, 01 điếu tự chế bằng chai nhựa, 01 bật lửa ga màu đỏ.

Tại bản kết luận giám định số 870/GĐ-PC09 ngày 29/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 02 mẫu các viên nén màu hồng ký hiệu M1, M2 gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetemine. Khối lượng vật chứng thu giữ là 0,4 gam. Methamphetemine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323 , mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Hoàn lại mẫu vật có biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định kèm theo.

Tại bản cáo trạng số 145/CT-VKSTPĐBP ngày 14/10/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Tô Ánh D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51/Bộ luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,33 gam Methamphetemine vật chứng còn lại sau giám định và 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh giấy bạc màu trắng đã bị cháy đen một phần, 01 ống điếu tự chế bằng chai nhựa, 01 bật lửa ga màu đỏ không còn giá trị sử dụng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ. Bị cáo không trình bày để bào chữa cho hành vi của mình.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định chất ma túy niêm phong lại vật chứng, Kết luận giám định...Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 22 giờ 30 phút ngày 20/7/2021 tại số nhà X, tổ dân phố X, phường T, thành phố Đ, Tô Ánh D đã có hành vi cất giấu trái phép 0,4 gam Methamphetemine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đa truy t ố đôi vơi bị cáo là có căn cứ pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

[2]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy. Có nhiều tiền sự, nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính: Năm 2015 04 lần bị Công an phường T, thành phố Đ xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền; Năm 2018 01 lần bị phạt cảnh cáo, 01 lần bị phạt tiền. Bị cáo chưa nộp tiền phạt, nhưng cho đến nay đã hết thời hiệu được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Ngày 25/01/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Đ quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc với thời gian 24 tháng, bị cáo đã thi hành xong quyết định này. Ngày 16/11/2018 bị cáo Tòa án nhân dân thành phố Đ quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 24 tháng. Ngày 22/11/2020 bị cáo chấp hành xong quyết định, trở về địa phương sinh sống. Tuy nhiên do thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân nên vẫn sử dụng ma túy, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội.

Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cai nghiện trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật. Có thể cho bị cáo mức hình phạt tù thấp nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.

[4]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:

Đối với 0,4 gam Methamphetemine thu giữ của bị cáo, sau khi gửi toàn bộ để giám định còn lại 0,33 gam - vật chứng còn lại của vụ án (là vật Nhà nước cấm tàng trữ); 01 mảnh nilon màu trắng (là vật dùng gói ma túy), 01 mảnh giấy bạc màu trắng đã bị cháy đen một phần, 01 điếu tự chế bằng chai nhựa, 01 bật lửa ga màu đỏ (là vật bị cáo dùng để sử dụng ma túy) là những vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[5]. Các vấn đề khác:

Đối với đối tượng bị cáo khai đã bán ma túy, quá trình điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô Arblade BKS 27B1 – 43xx là xe của bố bị cáo (ông Lê Thanh H) do bị cáo tự ý lấy để đi, ông H không biết bị cáo lấy xe đi lúc nào và dùng xe vào việc gì. Cơ quan điều tra không thu giữ xe, không đề cập xử lý đối với ông H nên HĐXX không xem xét, xử lý.

[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đều hợp pháp.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Tô Ánh D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Tô Ánh D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (21/7/2021).

2. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,33 gam Methamphetamine vật chứng còn lại sau giám định, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh giấy bạc màu trắng đã bị cháy đen, 01 ống điếu tự chế bằng chai nhựa, 01 bật lửa ga màu đỏ (đã niêm phong).

(Vật chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ, chi tiết theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/10/2021).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/11/2021)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2021/HSST

Số hiệu:20/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;