Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 201/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 201/2021/HS-PT NGÀY 03/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 03 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 247/2021/TLPT- HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo Trần Đại D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 291/2021/HS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

* Bị cáo kháng cáo:

Họ và tên: Trần Đại D, tên gọi khác: Không - sinh năm 1993.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: SN 358 L, phường B, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Trần Quốc B (Đã chết) và bà: Phạm Thị L1 - sinh năm 1957. Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Lê Diệu L - SN 1994. Có 01 con SN 2015.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18 đến ngày 21/5/2021, hiện đang áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ, ngày 18/5/2021, Tổ công tác Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thanh Hóa thực hiện nhiệm vụ tuần tra khu vực đường Nguyễn Văn Trỗi, phường Ngọc Trạo, TP Thanh Hóa, đã tiến hành kiểm tra đối với Trần Đại D SN 1993, trú tại SN 358 L, phường B, thành phố Thanh Hóa, phát hiện thu giữ trên tay trái của D đang cầm 02 gói nilon màu trắng, kích thước (04x06) cm, trong đó 01 gói nilon bên trong có 04 viên nén màu xanh năm cạnh và 01 gói nilon chứa các hạt tinh thể màu trắng. Qua khai thác nhanh tại chỗ, D khai nhận 04 viên nén màu xanh năm cạnh và các hạt tinh thể màu trắng bên trong 02 gói nilon là ma túy (thuốc lắc và Ketamin), D cất giữ để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác Công an thành phố đã đưa Trần Đại D về trụ sở Công an phường Ngọc Trạo lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ, niêm phong toàn bộ số ma túy của D để phục vụ công tác điều tra. Tại Kết luận giám định ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: 04 viên nén màu xanh năm cạnh là ma túy, có tổng khố lượng 1,954 gam, loại MDMA; các hạt tinh thể màu trắng là ma túy, có tổng khối lượng 0,672 gam. Loại Ketamin.

Về nguồn gốc số ma túy nêu trên, D khai bản thân là người nghiện ma túy, nên khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 18/5/2021, D đã tìm mua của một người đàn ông không quen biết tại đường Tân An, phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa 01 gói Ketamin và 04 viên thuốc lắc với giá 3.200.000 đồng. Số ma túy này khi D đang cầm trên tay trái tìm nơi sử dụng thì bị Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Quá trình điều tra, Trần Đại D đã thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bản thân. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và Kết luận giám định chất ma túy. (Sau giám định, cơ quan giám định đã hoàn lại mẫu vật giám định gồm: Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và 0,574 gam các hạt tinh thể màu trắng. Kết quả giám định là Ketamin; 03 viên nén màu xanh năm cạnh có tổng khối lượng 1,466 gam. Kết quả giám định là MDMA. Mỗi loại cho vào một phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, ký hiệu lần lượt là T1, T2 được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký, ghi rõ họ tên Lê Minh Tiến, Trần Thị Thúy Hằng, Lê Thị Thanh Loan và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa).

Về người đàn ông đã bán ma túy, D khai không quen biết, không rõ tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra mở rộng vụ án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 291/2021/HS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự (BLHS); điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS). Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên bị cáo Trần Đại D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Trần Đại D: 39 (Ba chín) tháng tù. Trừ thời gian tạm giữ cho bị cáo. Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27 tháng 8 năm 2021 bị cáo Trần Đại D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên.

Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân, hành vi phạm tội của bị cáo cũng như tình tiết mới được bổ sung tại phiên tòa đã đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đại D, giảm hình phạt cho bị cáo từ 12 (Mười hai) tháng đến 15 (Mười lăm) tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Xét về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 333 BLTTHS, nên đơn kháng cáo của bị cáo được coi là hợp pháp. Do vây, HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận đơn để xem xét nội dung kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung hồ sơ vụ án, cụ thể:

Do nghiện ma túy, D đã tìm mua của một người đàn ông không quen biết tại đường Tân An, phường Ngọc Trạo, TP. Thanh Hóa 01 gói Ketamin và 04 viên thuốc lắc với giá 3.200.000 đồng để sử dụng. Vào khoảng 22h ngày 18/5/2021, tại trước SN 29 Nguyễn Văn Trỗi, phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa, Trần Đại D đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,954 gam MDMA và 0,672 gam Ketamine (tổng khối lượng hai chất ma túy trong vụ án tương đương 2,12 gam MDMA), mục đích để sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện, bắt quả tang.

Lời thừa nhận về hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa nên hành vi phạm tội của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.

[3] Về tính chất vụ án:

Đây là vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy, và hình phạt đối với các hành vi phạm tội ma túy là rất nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn tàng trữ 1,954g là ma túy loại MDMA và 0,672g là ma túy loại Ketamine (Tổng trọng lượng hai chất ma túy quy đổi tương đương 2,12g MDMA). Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý ma túy của Nhà nước, mà còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình chính trị, trị an và an toàn xã hội. Vì vậy cần xử lý nghiêm để giáo dục, đồng thời phòng ngừa chung. Cấp sơ thẩm xác định tội danh và khung hình phạt cho bị cáo như trên là có cơ sở pháp lý.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Đại D:

Nhận thấy, khi lượng hình cấp sơ thẩm có xem xét, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bản thân chưa có tiền án, tiền sự, có bố đẻ ông Trần Quốc Bình là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương. Tình tiết giảm nhẹ này cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã tự nguyện nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu số 000955 ngày 09/11/2021 của Chi cục THA dân sự thành phố Thanh Hóa theo quyết định của bản án sơ thẩm khi bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, điều đó thể hiện sự ăn ăn hối cải, hối hận với việc làm của mình, bị cáo cũng đã tích cực tham gia ủng hộ quỹ phòng chống Covid-19 tại địa phương. Hơn nữa hoàn cảnh gia đình của bị cáo là rất khó khăn, bố đẻ là thương binh đã mất sớm, mẹ già yếu, vợ không có công việc ổn định, con đang còn nhỏ, bản thân là lao động chính trong gia đình, chưa vi phạm pháp luật lần nào, trong thời gian tại ngoại tại địa phương luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân. Chính quyền địa phương có xác nhận và đề nghị Tòa án xem xét trách nhiêm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

HĐXX xét thấy tại cấp phúc thẩm có thêm tình tiết mới nên cần xem xét chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự để bị cáo thấy được sự khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

Do vậy, kháng cáo của bị cáo Trần Đại D là có cơ sở. Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là áp dụng Điều 357 của BLTTHS, chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Đại D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận.

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không kháng cáo, không bị kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Đại D. Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số 291/2021/HS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa về phần hình phạt.

Tuyên bố: Trần Đại D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Trần Đại D 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ (từ ngày 18/5/2021 đến ngày 21/5/2021).

Về án phí Hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Đại D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 201/2021/HS-PT

Số hiệu:201/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;