Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 196/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 196/2022/HSST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/6/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 183/2022/TLST- HS ngày 18/5/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 198/2022/QĐXXST- HS ngày 16/6/2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Thị N, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1973, tại Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản P L, xã T L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn Phanh (Đã chết) và bà: Lò Thị Tún (Đã chết); có chồng: Lò Văn Hoa, sinh năm 1971 và 03 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 20/4/2011 bị cáo bị TAND huyện Đ B xử phạt 24 tháng tù về tôi “Mua bán trái phép chất ma túy” nay đã được xóa án tích; không bị xử lý hành chính; bị bắt từ ngày 07/3/2022 "Có mặt".

2. Họ và tên: Cà Văn H, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1967, tại Điện Biên Nơi cư trú: Bản L T, xã T L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 5/10; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Cà Văn Ánh (Đã chết) và bà: Cà Thị Kho (Đã chết); có vợ: Vì Thị Minh, sinh năm 1966 và 03 con, con lớn sinh năm 1986, con nhỏ sinh năm 1991; Tiền án: 02 tiền án; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Đ B áp dụng điểm đ khoản 2, khoản 5 Điều 194 BLHS; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS xử phạt 07 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Đến ngày 29/02/2019 chấp hành xong hình phạt tù, hiện chưa được xóa án tích.

Ngày 22/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ B áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đến ngày 21/6/2021 chấp hành xong hình phạt tù, hiện chưa được xóa án tích; không bị xử lý hành chính; bị bắt từ ngày 07/3/2022 "Có mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 31/01/2022, bị cáo Hịa từ nhà đi lên rừng thuộc bản Món, xã T L mục đích để lấy lá rong về gói bánh. Khi đi bị cáo có mang theo số tiền là 3.700.000 đồng. Tại khu vực rừng thuộc bản Món bị cáo gặp một người đàn ông (không biết tên và địa chỉ) trao đổi mua được 01 gói ma túy được gói ngoài bằng nilon màu xanh, bên trong có 10 viên Methamphetamine và 01 gói Heroine được gói ngoài bằng nilon màu xanh mục đích đem về sử dụng và có ai hỏi mua thì bán. Sau khi mua được bị cáo cất 02 gói ma túy đó vào túi quần bên trái đang mặc tiếp tục đi tìm lá rong. Về nhà bị cáo cất 02 gói ma túy vào trong bếp của gia đình. Từ ngày 31/01/2022 đến ngày 07/03/2022 bị cáo đã sử dụng hết 05 viên Methamphetamine và một ít Heroine. Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 07/03/2022, bị cáo N đến nhà bị cáo Hịa hỏi mua ma túy nên bị cáo Hịa đã cắt một ít Heroine ra rồi gói bằng nilon màu trắng, hơ lửa hàn kín miệng và 05 viên Methamphetamine gói bằng nilon màu hồng, miệng gói được cuốn lại đem bán cho bị cáo N thu về tổng số tiền là 200.000 đồng. Số Heroine còn lại bị cáo Hịa cất giấu vào túi quần bên trái, còn số tiền bán ma túy bị cáo Hịa cất vào túi áo ngực bên trái đang mặc. Đến khoảng 14 giờ 35 phút cùng ngày, Đồn Biên phòng Thanh Luông – Bộ chỉ huy bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên đã tiến hành khám xét khẩn cấp người và chỗ ở đối với bị cáo Hịa, thu giữ tại túi áo ngực bên trái số tiền 200.000 đồng và thu giữ tại túi quần bên trái của bị cáo đang mặc 01 gói Heroine.

Cùng ngày, hồi 09 giờ 30 phút tổ công tác Đồn Biên phòng Thanh Luông - Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên làm nhiệm vụ tại khu vực Bản L T, xã T L, huyện Đ B bắt quả tang bị cáo N trên tay phải đang cầm 01 gói được gói bằng nilon màu hồng, miệng gói cuốn lại bên trong có 05 viên Methamphetamine và 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng, hơ lửa hàn kín miệng.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 07/3/2022 đã xác định:

- Số chất bột màu trắng thu giữ của các bị cáo Lò Thị N có khối lượng là 0,82 gam;

- Số viên nén màu hồng thu giữ của các bị cáo Lò Thị N có khối lượng là 0,48 gam;

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 08/3/2022 đã xác định:

Số chất bột màu trắng thu giữ của các bị cáo Cà Văn H có khối lượng là 16,20 gam;

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 381/KL - KTHS ngày 08/3/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng vật chứng thu giữ của Lò Thị N gửi giám định là Heroine;

- Mẫu các viên nén màu hồng thu giữ của các bị cáo Lò Thị N gửi giám đinh là Methamphetamine.

Tại bản kết luận giám định số: 416/KL - KTHS ngày 16/3/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:

Mẫu chất bột màu trắng vật chứng thu giữ của Cà Văn H gửi giám định là Heroine;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 100/CT-VKSĐB ngày 17/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo Lò Thị N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS; bị cáo Cà Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm p, q Khoản 2 Điều 251/BLHS Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51/BLHS đối với bị cáo N, đề nghị xử phạt bị cáo N từ 27 đến 30 tháng tù. Áp dụng Điểm p, q Khoản 2 Điều 251/BLHS, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51/BLHS; Điều 58/BLHS đối với bị cáo Hịa, đề nghị xử phạt bị cáo Hịa từ 11 năm 06 tháng đến 12 năm tù. Áp dụng Điểm b, c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a, b Khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của tôi, cho tôi xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của các bị cáo:

Hồi 09 giờ 30 phút, ngày 07/3/2022 Lò Thị N đã có hành vi cất giấu trên tay phải 0,48 gam Methamphetamine và 0,82 gam Heroine. Tổng khối lượng hai chất ma túy Lò Thị N cất giấu là 1,3 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội của tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi của bị cáo và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS.

Cùng ngày hồi 14 giờ 35 phút, tại nhà của bị cáo Hịa Bản L T, xã T L, huyện Đ B, Cà Văn H có hành vi cất giấu trên người 16,2 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Trước đó hồi 09 giờ 00 phút cùng ngày Cà Văn H đã bán cho Lò Thị N 02 gói ma túy có tổng khối lượng 1,3 gam thu về số tiền 200.000 đồng, nên tổng khối lượng các chất ma túy Cà Văn H phải chịu trách nhiệm hình sự là 17,5 gam. Ngoài ra, Cà Văn H đã tái phạm chưa được xóa án tích, nay tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý nên phải chịu tình tiết định khung hình phạt “Tái phạm nguy hiểm”. Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm p, q Khoản 2 Điều 251/BLHS.

Các bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song các bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo N vi phạm là nghiêm trọng, tội phạm mà bị cáo Hịa vi phạm là rất nghiêm trọng nên cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi phạm tội và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, hai bị cáo đều có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51/BLHS.

Để cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian.

[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Đ B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 và Khoản 5 Điều 251/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ và đã bán cho bị cáo N, bị cáo Hịa mua của một người đàn ông ( không biết tên, địa chỉ), nên Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ B không đủ cơ sở làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật. Số tiền 200.000 đồng là do bị cáo Hịa bán ma túy cho bị cáo N mà có.

[7]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

[8]. Vật chứng: 16,2 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 10,3 gam); 0,82 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,69 gam); 0,48 gam Methamphetamine gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,31 gam) cần tịch thu tiêu hủy và tịch thu sung quý nhà nước số tiền 200.000đ do bị cáo phạm tội mà theo quy định tại Điểm b, c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a, b Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51/Bộ luật Hình sự đối với bị cáo N.

- Căn cứ Điểm p, q Khoản 2 Điều 251/BLHS, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51/BLHS; Điều 58/BLHS đối với bị cáo Hịa.

1. Tuyên bố: - Bị cáo Lò Thị N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo Cà Văn H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: - Xử phạt bị cáo Lò Thị N 27 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 07/3/2022.

- Xử phạt bị cáo Cà Văn H 11 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 07/3/2022.

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điểm b, c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, b Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 16,2 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 10,3 gam); 0,82 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,69 gam); 0,48 gam Methamphetamine gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,31 gam) và tịch thu sung quý nhà nước số tiền 200.000đ do bị cáo Hịa phạm tội mà.

(Vật chứng đã được công an huyện Đ B chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B ngày 17/5/2022).

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333/BLTTHS; Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 196/2022/HSST

Số hiệu:196/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;