Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 194/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 194/2021/HS-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 197/2021/TLST-HS và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 194/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Lê Việt T, sinh 1983 - Giới tính: Nam; ĐKNKTT: Tổ dân phố số 3, phường Đ, quận H, Thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Không nơi cư trú ổn định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông: Lê Thế C và con bà: Nguyễn Thị T; có 3 con, con lớn sinh 2002, con nhỏ nhất sinh 2017; TATS: Theo danh chỉ bản số 170 ngày 25/4/2020 do Công an huyện L lập và lý lịch bị can thì bị cáo chưa có tiền án - tiền sự.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 22/4/2020, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an Thành phố Hà Nội; có mặt.

2. Quàng Văn T2, sinh 1989 - Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; ĐKNKTT và nơi ở: Bản P, Pá K, Thành phố Đ, Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 2/12; Con ông: Quàng Văn D và con bà: Quàng Thị L (đã chết); vợ: Lò Thị P (đã ly hôn), không có con; TATS: Theo danh chỉ bản số 298 ngày 02/5/2021 do Công an huyện L lập và lý lịch bị can thì bị cáo có nhân thân ngày 12/5/2020, Tòa án nhân dân huyện L áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng đối với Quàng Văn T2.

Bị cáo bị bắt truy nã ngày 25/9/2021; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an Thành phố Hà Nội; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Quàng Văn T2 là bà Phan Thị Thu Y - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hà Nội (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 21/4/2020, Lê Việt T đi xe ôm từ phòng trọ ở Q, V, L, Hà Nội đi lên khu vực B, S, Bắc Ninh với mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đến nơi, T gặp một người đàn ông không quen biết đang đứng ở ven đường hỏi mua 200.000 đồng ma túy thì người đàn ông này cầm tiền và đưa lại T 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong là ma túy Heroine. Sau đó, T cầm ở lòng bàn tay phải và đi về phòng trọ tại Q, V, L, Hà Nội thì có Quàng Văn T2 ở đó (do Quàng Văn T2 mới đến trọ cùng T khoảng 10 ngày). Tại phòng trọ, T tự lấy gói ma túy mua được và chia ra làm hai phần thì có Trương Thị H (ở phòng bên cạnh) đi sang phòng trọ của T xin ít ma túy về để H mang về phòng của mình sử dụng cùng Khanh. T đồng ý cho H một ít ma túy nhưng không lấy tiền của H. Số ma túy còn lại, T lấy ra một ít để cho T2 sử dụng chung và không lấy tiền của T2. Sử dụng xong, T bọc số ma túy đó lại bằng giấy bạc màu trắng và cất vào trong 01 băng vệ sinh phụ nữ chưa qua sử dụng rồi giấu tại gầm bàn trong phòng trọ không nói cho ai biết. Việc T cất giấu ma túy, T2, H, Khanh đều không biết do tất cả đều đi ngủ. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 22/4/2020, khi cả T, Quàng Văn T2, H, Khanh đang ở phòng trọ tại Q, V, L, Hà Nội thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt quả tang T về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy cùng vật chứng như đã nêu trên. Quá trình kiểm tra Trần Văn Khanh, Trương Thị H và Quàng Văn T2, Cơ quan công an không thu giữ gì liên quan đến ma túy. Sau đó, Cơ quan công an đã lập biên bản và đưa Lê Việt T, Trần Văn Khanh, Trương Thị H và Quàng Văn T2 cùng vật chứng về trụ sở công an để làm rõ.

Cùng ngày 22/4/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Việt T ở Q, V, L, Hà Nội nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến ma túy.

Ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Lê Việt T còn khai nhận có hành vi đưa ma túy cho Quàng Văn T2 bán, cụ thể: Khoảng 8 giờ ngày 22/4/2020, tại phòng trọ của T ở V, L, Hà Nội T có đưa cho T2 06 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng là Heroine, T cho T2 sử dụng 1 gói không lấy tiền; còn 5 gói T bảo T2 đi bán, còn bán ở đâu, bao nhiêu tiền là do T2, T2 chưa đưa tiền cho T. Bản thân Quàng Văn T2 thừa nhận T đưa cho T2 đi bán 5 gói ma túy là Heroine vào ngày giờ và địa điểm như T khai trên, sau đó T2 đi lên khu vực B, S, Bắc Ninh bán cho những người không quen biết tên tuổi địa chỉ nên không thu giữ được vật chứng, số tiền bán ma túy còn 480.000 đồng T2 đã đưa cho T. Ngoài ra, T2 còn khai nhận không nhớ cụ thể ngày tháng nào T đưa cho T2 4 gói ma túy bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng, T cho T2 1 gói sử dụng còn 3 gói T2 mang bán ở S, Bắc Ninh được 300.000 đồng về đưa cho T. Ngoài lời khai của T2 không có tài liệu khác thể hiện T đưa ma túy cho T2 đi bán nhiều lần. Đến nay, Lê Việt T và Quàng Văn T2 thay đổi lời khai không có việc T đưa ma túy cho Quàng Văn T2 đi bán. Căn cứ lời khai của Lê Việt T phù hợp với lời khai của Quàng Văn T2 về việc T có đưa cho T2 5 gói ma túy mang đi bán như đã nêu trên nên ngày 30/4/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015; ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố bị can đối với Lê Việt T, Quyết định khởi tố bị can đối với Quàng Văn T2 về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Theo Kết luận giám định số 3232 ngày 01/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng có khối lượng: 0,151 gam là ma túy loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 198/CT-VKSGL ngày 12/11/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo Lê Việt T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; bị cáo Quàng Văn T2 về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Các bị cáo Lê Việt T và Quàng Văn T2 đã T2 khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố.

Người bào chữa cho bị cáo Quàng Văn T2 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về tội danh của bị cáo Quàng Văn T2. Vì ngoài lời khai của các bị cáo thì cơ quan điều tra không thu được ma túy, không xác định được 05 gói T2 mang đi bán có phải là chất ma túy hay không, không xác định được người mua ma túy, không có người làm chứng nên không có cơ sở để kết tội bị cáo về tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện L giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Lê Việt T đã đủ yếu tố cấu T2 tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội: Mua bán trái pháp chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; hành vi của bị cáo Quàng Văn T2 đã đủ yếu tố cấu T2 tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo T mức án từ 13 đến 15 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; từ 26 đến 30 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt của nhiều tội, buộc bị cáo phải chấp hành từ 39 đến 45 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/4/2020.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Quàng Văn T2 mức án từ 24 đến 28 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 25/9/2021.

- Về hình phạt bổ sung: Không.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,151 gam heroin (đã trích mẫu 0,019 gam để giám định, còn 0,132 gam) Nói lời sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo T2 khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng huyện L là hợp pháp.

- Về tội danh:

[2]. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, bản Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm nhân dân huyện L đã truy tố.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 22/4/2020, tại khu nhà trọ của bà Vũ Thị Lan sinh 1962, địa chỉ: Thôn Q, V, L, Hà Nội - Lê Việt T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine, khối lượng 0,151 gam mục đích để sử dụng thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Ngoài ra, khoảng 8 giờ ngày 22/4/2020, cũng tại phòng trọ T tH của bà Vũ Thị Lan ở thôn Q, V, L, Hà Nội - Lê Việt T đưa cho Quàng Văn T2 05 gói ma túy để mang đi bán cho các đối tượng nghiện ma túy. T2 đã bán được 05 gói cho đối tượng nghiện ma túy với giá 500.000 đồng. Số tiền trên, T2 đã mua một gói thuốc lào hết 5000 đồng, uống nước hết 15.000 đồng, còn lại 480.000 đồng bị cáo T2 khai để dưới gối của T.

[3]. Hành vi của bị cáo Lê Việt T đã có đủ yếu tố cấu T2 tội: “Tàng trữ trái phép chất may túy”; tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo T là kẻ giữ vai trò chủ mưu và thực hành còn bị cáo T2 là kẻ thực hành tích cực. Dù không thu giữ được chất ma túy các bị cáo mua bán, không xác định được người mua ma túy của T2, không có người làm chứng song các bị cáo đều khẳng định ý chí chủ quan về việc mua bán ma túy lấy lãi để tiêu sài và cùng sử dụng chung ma túy. Lời khai của các bị cáo ngay sau khi bị bắt và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nhau về việc các bị cáo thống nhất bán 05 gói ma túy heroin cho các đối tượng nghiện khác. Và bị cáo T2 đã bán được 05 gói heroin với giá 500.000 đồng. Như vậy, các bị cáo nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật cấm nhưng vì tư lợi cá nhân các bị cáo vẫn cố ý thực hiện việc mua bán ma túy cho các đối tượng nghiện khác để lấy tiền lãi tiêu sài và cùng sử dụng ma túy. Hành vi của bị cáo Lê Việt T và bị cáo Quàng Văn T2 đã có đủ yếu tố cấu T2 tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Viện Kiểm sát nhân dân huyện L đề nghị truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đã cố ý trực tiếp xâm phạm sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được Bộ luật Hình sự bảo vệ. Do vậy, cần phải nghiêm trị đối với các bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

[7]. Về tình tiết tăng nặng: Nhân thân của bị cáo T chưa có tiền án -tiền sự. Bị cáo T2 chưa có tiền án, tiền sự; nhân thân ngày 12/5/2020, Tòa án nhân dân huyện L áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng đối với Quàng Văn T2. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[8]. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo T2 khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo T2 là người dân tộc thiểu số sinh sống ở khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[9]. Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt các bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo vì các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định ở trên. Đối với bị cáo T còn phải chịu tổng hợp hình phạt của nhiều tội theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự.

[10]. Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về nhân thân của các bị cáo, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận. Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo T2 tại phiên tòa không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về hình phạt bổ sung:

[11]. Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[12]. Thu giữ của bị cáo T 0,151 gam heroin bị cáo dùng để thực hiện tội phạm nên cần cho tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

- Về các vấn đề khác:

[13]. Đối với Trần Văn Khanh, Trương Thị H đều khai nhận có sử dụng ma túy, ngày 22/4/2020, qua xét nghiệm những người nêu trên dương tính với chất ma túy Heroine. Do vậy, ngày 22/6/2020, Công an huyện L đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Văn Khanh, Trương Thị H về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma tuý là có căn cứ.

[14]. Đối với đối tượng đã bán ma túy cho T do không xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L không có căn cứ để xử lý.

[15]. Đối với bà Vũ Thị Lan cho Lê Việt T tH trọ không biết T có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy” nên không có căn cứ xử lý đồng phạm với T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[16]. Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt bổ sung, về xử lý vật chứng và về các vấn đề khác là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về án phí:

[17]. Bị cáo T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo T2 là người dân tộc thiểu số sinh sống ở khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên Hội đồng xét xử miễn nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo T2 theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo:

[18]. Các bị cáo và người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Việt T 12 (mười hai) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; 26 (hai mươi sáu) tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt của nhiều tội, buộc bị cáo Lê Việt T phải chấp hành 38 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/4/2020.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Quàng Văn T2 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/9/2021.

3. Về hình phạt bổ sung: Không.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,151 gam heroin (đã trích mẫu 0,019 gam để giám định) còn 0,132 gam (Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/3/2021).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Việt T phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Miễn nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn T2.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo Quàng Văn T2 có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 194/2021/HS-ST

Số hiệu:194/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;