TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 187/2021/HSST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 28 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 194/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 194/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Minh T; Sinh năm: 2001; Nơi cư trú : Tổ 2 phường V, quận H, H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Họ tên cha: Phạm Ngọc C; Họ tên mẹ: Trần Thị T2; Danh chỉ bản số: 310 lập ngày 26/5/2021 tại Công an quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội;
Tiền án, tiền sự: Không.
Tạm giữ: 21/5/2021 Tạm giam: 27/5/2021 Hủy bỏ tạm giam: 13/8/2021 Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 05 phút ngày 20/5/2021, tổ công tác Cảnh sát cơ động C1 - D2 - PK02E - CATP. Hà Nội làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện Phạm Minh T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave 110 màu đỏ trắng, biển kiểm soát 30N7 - 5698 trước cửa số nhà 957 Hồng Hà, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T dùng tay trái ném 01 túi nilông kích thước khoảng 2x2 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng lên nóc chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Tucson màu nâu - biển kiểm soát 30F – 861.70 (cách vị trí T đang đứng khoảng 3 mét) nhưng bị tổ công tác phát hiện. T đã tự nguyện nhặt túi nilông trên giao nộp cho tổ công tác và khai nhận là ma túy “đá”, mua về nhằm mục đích sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản, đưa T cùng tang vật về trụ sở Công an phường Chương Dương giải quyết.
Ngoài ra thu giữ của Phạm Minh T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO AS 2020 màu trắng (đã qua sử dụng), kèm sim số 0869313152; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave 110 màu trắng đỏ, biển kiểm soát: 30N7 – 5698 (đã qua sử dụng), số khung: RLHC 430 XBY 007959, số máy: JC43E - 0878823.
Tại bản kết luận giám định số 4218/KLGĐ-PC09 ngày 27/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,780 gam.
Tại cơ quan điều tra, Phạm Minh T khai: Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 20/5/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T (sử dụng số điện thoại: 088931352) gọi cho 01 người phụ nữ tên T3 (không rõ họ tên, địa chỉ; số điện thoại:
0919019898) hỏi mua 200.000 đồng ma túy “đá”; T3 đồng ý và hẹn giao dịch tại đầu ngõ 279 Trần Khát Chân, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Khoảng 20 giờ 25 phút cùng ngày, T điều khiển xe máy đến điểm hẹn để mua ma tuý. Sau khi mua được ma túy, T cầm ở tay trái và điều khiển xe đi tìm nơi để sử dụng. Khi T đến trước cửa số nhà 957 Hồng Hà thì bị tổ công tác yêu cầu kiểm tra; do hoảng sợ nên T đã dùng tay trái ném túi nilông trên lên nóc chiếc xe ô tô Huyndai Tucson màu nâu, biển kiểm soát: 30F – 861.70 cách vị trí T đang đứng khoảng 3 mét nhưng bị tổ công tác phát hiện như nêu trên. Chiếc điện thoại bị thu giữ, T sử dụng để hỏi mua ma túy (chuyển theo hồ sơ vụ án).
Về đối tượng T3 bán ma túy cho T: T khai không biết đầy đủ họ tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra đã xác minh số điện thoại 0919019898: không xác định được chủ thuê bao nên không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave 110 màu trắng đỏ, biển kiểm soát: 30N7-5698 thu giữ của T: không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, chủ xe là anh Nguyễn Hữu T4 (sinh năm: 1980; địa chỉ: 583 Minh Khai, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Tại cơ quan điều tra, anh Nguyễn Hữu T4 khai năm 2010 mua chiếc xe trên, đến năm 2016 thì bán lại cho ông Phạm Ngọc C (sinh năm: 1969; HKTT: tổ 2 phường V, quận H, H; bố đẻ của T). Ngày 20/5/2021, ông C cho T mượn xe để đi lại, không biết T sử dụng xe để đi mua ma túy. Xét thấy không liên quan đến vụ án nên ngày 10/8/2021, Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho ông C; sau khi nhận lại xe, ông C không có yêu cầu gì khác.
Tại bản cáo trạng số 197/CT-VKS ngày 16/8/2021, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Phạm Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên toà, bị cáo khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, sau khi phân tích tính chất hành vi của bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị kết tội bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn trong cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điều 38; điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 16 đến 18 tháng tù. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy ma túy. Tịch thu sung công: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO AS 2020 màu trắng. Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên:
Trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
[2] Về tội danh:
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng tang vật thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ 05 phút ngày 20/5/2021, Phạm Minh T có hành vi tàng trữ trái phép 0,780 gam ma tuý loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật tại trước cửa số 957 Hồng Hà, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Trách nhiệm hình sự và hình phạt:
Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do đó cần có mức hình phạt tù giam cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung. Bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, thời gian bị tạm giam bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình và ăn năn hối hận, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, gia đình bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng vì vậy có thể xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[5] Xử lý tang vật:
- Ma túy còn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; 01 sim điện thoại không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO AS 2020 màu trắng thu giữ của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung công.
[6] Án phí và quyền kháng cáo:
- Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Áp dụng:
+ điểm c khoản 1 điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;
+ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106, Điều 107, 135, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
+ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
3. Xử phạt: bị cáo Phạm Minh T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/5/2021 đến ngày 13/8/2021.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
4. Tang vật:
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilông kích thước khoảng 2x2 cm, bên trong chứa 0,780 gam ma túy loại Methamphetamine, PC09 trích mẫu 0,040 gam, còn lại 0,740 gam ; 01 sim điện thoại.
+ Tịch thu sung công 01 điện thoại di động kiểu dáng, nhãn hiệu OPPO AS 2020 màu trắng.
(Tang vật hiện giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 23/9/2021)
5. Án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 187/2021/HSST
Số hiệu: | 187/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về