TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y - TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 18/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình; xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2024/TLST-HS ngày 22/02/2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2024/QĐXXST-HS ngày 14/3/2024 đối với bị cáo:
Phùng Thế P sinh năm 1989; nơi cư trú phố T, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Phùng Văn V(đã chết) và bà Nguyễn Thị H; vợ là Nguyễn Thị Th (đã ly hôn) có 01 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/01/2024 đến ngày 17/01/2024 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.
Người chứng kiến: Ông Hà Văn M và anh Phạm Văn T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 07 giờ ngày 08/01/2024, P đón xe bus đi từ nhà ở Thị trấn Y, huyện Y xuống khu vực ngã ba Q thuộc xã H, huyện K để tìm mua ma túy. Tại đây, P gặp và hỏi mua được của người đàn ông không quen biết 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng, giấy gói ngoài được gói bằng giấy kẻ ô ly màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, P cất giấu 01 gói vào túi quần phía trước bên trái, còn 01 gói cất giấu vào túi áo khoác bên phải đang mặc rồi đón xe bus về nhà, khi đến xã K, huyện Y thì P xuống xe đi bộ mục đích tìm nơi sử dụng ma túy. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, P đi bộ đến xóm 2, xã K, huyện Y thì gặp tổ công tác Công an xã K đang làm nhiệm vụ tại đây. Do đang cất giấu ma túy trên người, biết không thể che giấu được nên P đến gặp tổ công tác xin tự thú về hành vi phạm tội của bản thân và tự móc trong túi quần phía trước bên trái, túi áo khoác bên phải đang mặc ra 02 gói ma túy rồi khai nhận 2 gói nhỏ đó là Heroine vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong 02 gói nhỏ thu giữ của P vào 01phong bì ký hiệu M. Sau đó, tổ công tác mời người chứng kiến và đưa P về trụ sở Công an xã K để lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú và biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ theo quy định và bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y điều tra theo thẩm quyền. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y tiến hành mở niêm phong mẫu ký hiệu M, cân xác định khối lượng và lấy toàn bộ chất bột dạng cục màu trắng gửi trưng cầu giám định ký hiệu M1, M2.
Tại Kết luận giám định số 147/KL-KTHS-MT ngày 15 tháng 01 năm 2024, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận “Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0952 gam, ký hiệu M2 có khối lượng 0,0712 gam. Tổng khối lượng hai mẫu ký hiệu M1, M2 là 0,1664 gam gửi giám định đều là ma tuý, loại Heroine (Heroine là chất ma túy được quy định tại Danh mục IA, số thứ tự thứ 9, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ).
Tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKSYK ngày 21/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo Phùng Thế P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phùng Thế P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù;
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01phong bì niêm phong bên trong có mẫu vật hoàn trả sau giám định M1= 0,0517gam, M2= 0,0454gam đều là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01phong bì niêm phong bên trong có 02 mảnh giấy kẻ ô ly màu trắng dùng để gói chất ma túy thu giữ của bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận và bào chữa. Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú cùng vật chứng đã thu giữ; kết luận giám định chất ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 08/01/2024 tại xóm 2, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình, Phùng Thế P đã tự thú với tổ công tác Công an xã K về hành vi cất giữ trái phép trên người 0,1664 gam ma túy loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của Phùng Thế P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Khoản 1 Điều 249 của BLHS quy định về tộin “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như sau: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến những quy định của nhà nước về chế độ quản lý các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Khi quyết định hình phạt cần phải xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng cho bị cáo đúng quy định của pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ đó là đã tự thú và thành khẩn khai báo được quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;
Xét tính chất hành vi phạm tội, mức độ nguy hiểm cho xã hội, khối lượng chất ma tuý bị cáo tàng trữ; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời hạn nhất định đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo; đồng thời đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Bị cáo phạm tội không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[3] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết ở tại khu vực ngã ba Q thuộc xã H, huyện K, tỉnh Ninh Bình, nên không có căn cứ điều tra xử lý.
[4] Về xử lý vật chứng: Đối với 01phong bì ghi số 147/KTHS-MT bên trong có mẫu hoàn trả sau giám định M1= 0,0517gam, M2= 0,0454gam đều là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01phong bì niêm phong bên trong có 02 mảnh giấy kẻ ô ly màu trắng dùng để gói chất ma túy thu giữ của bị cáo toàn bộ số vật chứng này cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[6] Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Phùng Thế P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo13 (Mười ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 08/01/2024.
Tịch thu tiêu hủy 01phong bì ghi số 147/KTHS-MT bên trong có mẫu hoàn trả sau giám định M1= 0,0517gam, M2= 0,0454gam đều là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01phong bì niêm phong bên trong có 02 mảnh giấy kẻ ô ly màu trắng dùng để gói chất ma túy thu giữ của bị cáo (vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 27/02/2024 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Y và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Ninh Bình).
Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Đều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 18/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 18/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về