Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 07/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07/7/2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST-HS, ngày 24 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Đình A; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 18 tháng 9 năm 1995, tại: Đức Thịnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nơi cư trú: Thôn Gia Th, xã T, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Đảng phái: Không. Trình độ học vấn: 11/12. Họ và tên cha: Nguyễn Đình Q, sinh năm 1968. Họ và tên mẹ: Bùi Thị M - Sinh năm 1969. Anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai. Vợ: Trần Thị Hằng N, sinh năm 2000. Con: Có 01 con, mới sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 08/01/2019, Nguyễn Đình A bị Công an thị xã Hồng Lĩnh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và bị phạt tiền 750.000 đồng. Ngày 11/01/2019 đã chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24/4/2020 đến ngày 26/4/2020 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa, sức khỏe bình thường và tự bào chữa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn S, sinh ngày: 11/11/1996. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trú tại: Thôn Đồi C, xã L, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

- Anh Võ Tá Q, sinh ngày: 05/7/1990. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trú tại: Thôn Gia Th, xã T, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

* Người chứng kiến:

- Chị Phạm Thị Tr, sinh ngày: 20/9/1986. Trú tại: Khối A, phường H, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

- Anh Võ Văn H, sinh năm: 1988. Trú tại: Thôn Thuận S, xã L, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 24/4/2020 Nguyễn Đình A một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 38D1- X từ nhà tại Thôn Gia Th, xã T, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh đi đến nhà Nguyễn Văn S, trú tại thôn Đồi C, xã L, thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh chơi. Trong quá trình ngồi chơi Nguyễn Đình A nảy sinh ý định sử dụng chất ma túy nên nói với Nguyễn Văn S: Vào thành phố Hà Tĩnh lấy tý về ta chơi (ý A rủ S vào thành phố Hà Tĩnh mua chất ma túy về cùng sử dụng). S đồng ý và nói: Vào đó em vào nhà chị chơi luôn. A đồng ý và điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 38D1 - X chở S đi theo đường Quốc lộ 1A hướng vào Nam. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, A chở S đến ki ốt cắt tóc của chị Phạm Thị Tr tại tổ dân phố 10, phường Nam Hà, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh chơi. Lúc này A sử dụng điện thoại hiệu NOKIA 105, màu đen, có số tuê bao 0968.687.X gọi điện thoại cho một người đàn ông không quen biết hỏi: A có ma túy không để cho em một ít (ý nói với người đàn ông đó có ma túy đá không bán cho A một ít), người đàn ông đó trả lời: Có, lấy bao nhiêu tiền? A nói: bán cho em 300.000 đồng. Người đàn ông đó nói: Chờ một lúc, gọi lại sau. Khoảng 05 phút sau, người đàn ông đó gọi lại cho A và nói: Đã lấy 300.000 đồng cho em rồi đó. A nói: Cho em xin một cái coóng để về sử dụng ma túy. Người đàn ông đó đồng ý. A nói tiếp: Lấy ma túy ở đâu? Người đàn ông đó hướng dẫn cho A vị trí để chất ma túy và coóng thủy tinh ở trong 02 vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long màu vàng cạnh gốc cây ở đường giao nhau với đường Quốc lộ 1A và đường Hải Thượng Lãn Ông thuộc tổ dân phố 06, phường Trần Phú, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh và để tiền mua ma túy lại đó. Lúc này, A dắt xe mô tô để đi thì S hỏi: Đi đâu? A trả lời: Đi mua thẻ thẻ điện thoại, tí quay lại đón. A một mình điều khiển xe mô tô đi đến địa điểm để chất ma túy như hướng dẫn thấy có 02 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng để nằm cạnh gốc cây, biết bên trong 02 vỏ bao thuốc lá có chứa chất ma túy và dụng cụ sử dụng chất ma túy nên không mở ra kiểm tra mà cất giấu 01 vỏ bao thuốc lá vào trong túi áo khoác bên trái, còn 01 vỏ bao thuốc lá nữa thì A cho vào túi quần phía trước bên trái đang mặc trên người rồi A lấy 300.000 đồng (gồm một tờ mệnh giá 100.000 đồng và một tờ mệnh giá 200.000 đồng) cho vào 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng để vỏ bao thuốc lá đó ngay vị trí lấy ma túy. Sau đó, A điều khiển xe mô tô quay lại ki ốt của chị Phạm Thị Tr đón S về. Lúc này khoảng 19 giờ 15 phút cùng ngày, S điều khiển xe mô tô chở A ngồi phía sau mang theo chất ma túy đi về thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh. Đến khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, A và S đi đến đường liên thôn thuộc thôn Đồi Cao, xã L, thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh thì bị lực lượng Công an thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh tiến hành kiểm tra, biết không thể giấu được nên A tự nguyện lấy từ trong túi áo khoác bên trái đang mặc trên người 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng khác từ trong túi quần phía trước bên trái ra. Công an thị xã Hồng Lĩnh kiểm tra 01 vỏ bao thuốc lá lấy từ túi áo khoác thấy bên trong có chứa 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng 2,5 x 2,5cm đựng chất tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma túy và 01 vỏ bao thuốc lá lấy trong túi quần phía trước bên trái ra thấy bên trong có 01 chiếc coóng là dụng cụ tự chế để sử dụng chất ma túy. Nguyễn Đình A thừa nhận chất tinh thể rắn màu trắng trong túi ni lông nói trên là chất ma túy tổng hợp dạng “đá”, do Nguyễn Đình A mua, cất giấu trên người đưa về sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện. Ngoài ra, khi kiểm tra trên xe mô tô biển kiểm soát 38D1-X do S điều khiển còn phát hiện 01 chiếc tất chân màu trắng bên trong chứa 01 ống nhựa màu trắng dài khoảng 09 cm và 01 nắp chai nhựa màu trắng đã được đục 02 lỗ tròn, A khai nhận đó là các bộ phận dụng cụ để sử dụng trái phép chất ma túy do A cất giấu. Công an thị xã Hồng Lĩnh đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ, niêm phong vật chứng và yêu cầu Nguyễn Đình A về trụ sở cơ quan Công an để điều tra làm rõ.

Ngày 25/4/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh có kết luận giám định số 89/GĐMT-PC09 kết luận: Chất tinh thể rắn màu trắng chứa trong 01 túi nilon màu trắng, kích thước (2,5 x 2,5)cm thu giữ của Nguyễn Đình A gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng 0,4167 gam. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh đã thu giữ như sau:

- 01 phong bì thư đã niêm phong bên ngoài phong bì thư có chữ ký của Nguyễn Đình A và các thành phần có liên quan, bên trong chứa 0,3319 gam là Methamphetamine (đã lấy mẫu giám định hết 0,0848 gam).

- 01 coóng thủy tinh màu trắng đã qua sử dụng; 01 ống nhựa màu trắng dài 09 cm, hai đầu được vát nhọn đã qua sử dụng và 01 nắp chai nhựa màu trắng, được đục hai lỗ phía trên đã qua sử dụng. Đây là các bộ phận dụng cụ để sử dụng trái phép chất ma túy.

- 02 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, là công cụ để cất dấu chất ma túy và coóng thủy tinh để sử dụng trái phép chất ma túy và 01 chiếc tất chân màu trắng đã qua sử dụng, là công cụ để cất dấu dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy.

- 01 điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA 105, vỏ màu đen, số IMEI 1:356851075863627, số IMEI 2: 356851075863635, đã qua sử dụng, là tài sản của Nguyễn Đình A đã sử dụng để liên lạc với người bán chất ma túy.

Số vật chứng nêu trên đã được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh Đối với các vật chứng:

- 01 xe môtô nhãn hiệu YAMAHA, số loại EXCITER, S màu: đen, biển kiểm soát 38D1-X, số khung: 0610JY620249, số máy: G3D4E645973, đã qua sử dụng. Sau khi điều tra, làm rõ xác định tài sản trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Võ Tá Q cho Nguyễn Đình A mượn nhưng Võ Tá Q không biết Nguyễn Đình A mượn để sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên đã trả lại cho chủ sở hữu.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F7, vỏ màu đỏ, số IMEI 1: 868476037928754, số IMEI 2: 868476037928747, đã qua sử dụng, là tài sản của Nguyễn Văn S không liên quan đến hoạt động phạm tội. Sau khi điều tra, làm rõ đã trả lại cho chủ sở hữu.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, vật chứng thu giữ như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số18/CT-VKS-TXHL ngày 29/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Đình A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình A từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2020.

Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Anh vì bị cáo là lao động phổ thông, thu nhập ổn định, gia đình bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư đã niêm phong bên ngoài phong bì thư có chữ ký của Nguyễn Đình A và các thành phần có liên quan, bên trong chứa 0,3319 gam là Methamphetamine. 01 coóng thủy tinh màu trắng đã qua sử dụng; 01 ống nhựa màu trắng dài 09 cm, hai đầu được vát nhọn đã qua sử dụng và 01 nắp chai nhựa màu trắng, được đục hai lỗ phía trên đã qua sử dụng. Đây là các bộ phận dụng cụ để sử dụng trái phép chất ma túy. 02 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, là công cụ để cất dấu chất ma túy và coóng thủy tinh để sử dụng trái phép chất ma túy và 01 chiếc tất chân màu trắng đã qua sử dụng, là công cụ để cất dấu dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA 105, vỏ màu đen, số IMEI 1: 356851075863627, số IMEI 2: 356851075863635, đã qua sử dụng, là tài sản của Nguyễn Đình A đã sử dụng để liên lạc với người bán chất ma túy.

Các vật chứng khác sau khi điều tra làm rõ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh đã trã lại cho chủ sử hữu. Viện kiểm sát thấy rằng việc xử lý của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh, như vậy là có căn cứ và đúng pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo tại phiên tòa trình bày lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi của bị cáo Nguyễn Đình A là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy đồng thời gây ảnh hưởng lớn đến trật tự quản lý xã hội trên địa bàn thị xã. Lúc thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã chủ động hoàn toàn, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, động cơ và mục đích phạm tội là thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Với số lượng ma túy thu được là 0,4167 gam là Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ, với thời gian, địa điểm và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án vì thế khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Đình A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Đình A là người đã có vợ và đã có con, lẽ ra bị cáo phải ý thức được trách nhiệm của người làm chồng, làm cha, phải tu chí bản thân, phải tìm cho mình một nghề nghiệp lương thiện để có thu nhập chính đáng nuôi sống bản thân cũng như phụ giúp gia đình, nhưng bị cáo lại không làm vậy, chỉ vì phục vụ cho nhu cầu của cá nhân mà bị cáo đã tìm đến ma túy, không những vậy bị cáo còn tàng trữ để sử dụng dần, vì vậy đã sớm sa vào con đường phạm tội. Bên cạnh đó bị cáo nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 08/01/2019, Nguyễn Đình A bị Công an thị xã Hồng Lĩnh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và bị phạt tiền 750.000 đồng. Ngày 11/01/2019 đã chấp hành xong. Xét về động cơ, mục đích, tác hại, số lượng ma túy thu được từ bị cáo và nhân thân của bị cáo, vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải lên một mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian vừa đủ mới có điều kiện cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng……hoặc toàn bộ tài sản” do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy gia đình bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo là lao động phổ thông nên thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Những người liên quan trong vụ án: Đối với Nguyễn Văn S, trú tại thôn Đồi Cao, xã L, thị xã Hồng Lĩnh là đối tượng bị Nguyễn Đình A rủ đi cùng mua chất ma túy đưa về sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện. Quá trình điều tra làm rõ Nguyễn Văn S không góp tiền mua chất ma túy và không biết Nguyễn Đình A mua chất ma túy của ai, thời gian nào chỉ khi bị lực lượng Công an thị xã Hồng Lĩnh kiểm tra phát hiện thì Nguyễn Văn S mới biết Nguyễn Đình A tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh không xem xét xử lý đối với Nguyễn Văn S là có căn cứ. Đối với Võ Tá Q, trú tại Thôn Gia Th, xã T, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38D1 - X do Nguyễn Đình A sử dụng làm phương tiện để đi mua ma túy và bị Công an thị xã Hồng Lĩnh phát hiện. Quá trình điều tra anh Võ Tá Q trước đó cho Nguyễn Đình A mượn chiếc xe mô tô trên nhưng không biết Nguyễn Đình A mượn để làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với anh Võ Tá Q.

Đối với người đàn ông bán chất ma túy cho Nguyễn Đình A tại khu vực giao nhau giữa đường Quốc lộ 1A và đường Hải Thượng Lãn Ông thuộc tổ dân phố 6, phường Trần Phú, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh đã phối hợp với Công an phường Trần Phú soát xét trên địa bàn phường Trần Phú, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh nhưng không xác định được. Vì vậy Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về vật chứng: Cần áp áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý.

Các vật chứng khác mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh, sau khi điều tra làm rõ đã trả lại cho chủ sử hữu. Hội đồng xét thấy rằng việc xác định và giải quyết như vậy là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình A phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình A 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2020.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư đã niêm phong bên ngoài phong bì thư có chữ ký của Nguyễn Đình A và các thành phần có liên quan, bên trong chứa 0,3319 gam là Methamphetamine. 01 coóng thủy tinh màu trắng đã qua sử dụng; 01 ống nhựa màu trắng dài 09 cm, hai đầu được vát nhọn đã qua sử dụng và 01 nắp chai nhựa màu trắng, được đục hai lỗ phía trên đã qua sử dụng. Đây là các bộ phận dụng cụ để sử dụng trái phép chất ma túy. 02 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, là công cụ để cất dấu chất ma túy và coóng thủy tinh để sử dụng trái phép chất ma túy và 01 chiếc tất chân màu trắng đã qua sử dụng, là công cụ để cất dấu dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA 105, vỏ màu đen, số IMEI 1: 356851075863627, số IMEI 2: 356851075863635, đã qua sử dụng, là tài sản của Nguyễn Đình A đã sử dụng để liên lạc với người bán chất ma túy (tất cả vật chứng trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh ngày 29/5/2020).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Đình A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, bị cáo, và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, những người trên vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2020/HS-ST

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;