Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 02/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 02 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HS ngày 17/02/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh V; giới tính: Nam; sinh ngày 10 tháng 3 năm 2000 tại An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ văn hóa: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; con ông Nguyễn Thanh P và bà Đào Thị Mỹ E; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 08/10/2019. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 10 phút ngày 08/10/2019, Công an Phường 08, Quận 4 và Công an Quận 4 tuần tra đến trước số 207 D, Phường 8, Quận 4, phát hiện Nguyễn Hoàng T điều khiển xe Yamaha hiệu Exciter, biển số 67D1-855.xx dùng chân đẩy xe gắn máy hiệu Liberty, màu trắng, biển số 59M1-508.xx (xe bị hư không nổ máy được) do Nguyễn Thanh V điều khiển, nên yêu cầu cả hai dừng xe kiểm tra. Trong lúc kiểm tra, V lấy một khẩu trang trong túi quần trước bên trái của V đang mặc ném xuống đất thì bị tổ tuẩn tra phát hiện, thu giữ. Kiểm tra bên trong khẩu trang có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, nghi là ma túy, nên Công an thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với V.

Theo kết luận giám định số 1891/KLGĐ-H ngày 16/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon (để trong 01 cái khẩu trang màu đen) được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thanh V và hình dấu Công an Phường 08, Quận 4 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2266 (không phẩy hai hai sáu sáu) gam, loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, lúc đầu V khai nhận đang học nghề tại tiệm sửa xe của V tại Đường D, phường E, Quận F từ tháng 7/2019. V không trả tiền công mà cho ăn, ở và cho tiền tiêu vặt. Khoảng 16 giờ ngày 07/10/2019, T đưa cho V 300.000 đồng đến Công viên cầu Tân Thuận, Phường 18, Quận 4 mua ma túy về sử dụng chung. V cầm 300.000 đồng chạy xe máy đến Công viên cầu Tân Thuận rồi điện thoại cho T. Khoảng 10 phút sau, có một thanh niên (chưa rõ lai lịch) đến đưa ma túy cho V rồi lấy 300.000 đồng. V cầm số ma túy trên về tiệm cùng với T sử dụng một ít, còn lại V để trong khẩu trang và cất giấu trong túi quần để dành sử dụng. Đến khoảng 00 giờ ngày 08/10/2019, V cùng T qua Quận 1 nhận xe hư của khách về sửa. V điều khiển xe hư của khách, T chạy sau dùng chân đẩy, khi đến trước số 207 D, Phường 08, Quận 4 thì bị Công an kiểm tra, sợ bị phát hiện gói ma túy nên V định ném nhưng Công an phát hiện thu giữ, lập biên bản bắt quả tang như đã nêu trên.

Quá trình điều tra, V thay đổi lời khai, xác định 300.000 đồng mua ma túy là của V khi sửa xe khách cho, không phải tiền T đưa như lời khai ban đầu.

Đối với Nguyễn Hoàng T khai nhận vào ngày 07/10/2019, T có sử dụng chung ma túy với V. T không đưa tiền cho V mua, V mua ở đâu T không biết. Sau khi sử dụng một ít, còn lại V cất giấu ở đâu T không biết. Khi V lấy ném xuống đất bị Công an thu giữ T mới biết. Do không đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với T nhưng qua kiểm tra T có sử dụng ma túy, không có nơi cư trú ổn định nên Công an Phường 08, Quận 4 lập hồ sơ đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Thanh thiếu niên 2 để quản lý cắt cơn, giải độc tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 18/11/2019, Ủy ban nhân dân Phường 08 hủy quyết định trên.

Vật chứng của vụ án: 01 gói niêm phong ghi vụ số 1891 là ma túy thu giữ của Nguyễn Thanh V còn lại sau giám định (được đựng trong khẩu trang màu đen).

Tạm giữ của Nguyễn Thanh V:

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen - trắng, số Imei: 351859/07/840114/2 đã qua sử dụng, V khai là tài sản cá nhân dùng để liên lạc với gia đình;

- Số tiền 1.600.000 đồng là tài sản cá nhân của V;

- 01 xe Yamaha hiệu Exciter, biển số 67D1-855.xx. Qua xác minh xe trên là của bà Đào Thị Mỹ E (mẹ của V). Bà E đưa xe cho V sử dụng làm phương tiện đi lại, không biết V sử dụng vào việc liên quan đến ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 4 đã trả lại cho bà E;

- 01 xe gắn máy hiệu Liberty màu trắng, biển số 59M1-508.xx. Qua xác minh xe trên là của Phạm Minh K đưa cho T sửa, không liên quan đến hành vi phạm tội của V nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 4 đã trả lại cho ông K;

Tại Bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 20/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo Nguyễn Thanh V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn Thanh V có lời khai phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, bản thân bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, bị cáo đã ăn năn, hối cải, nên xin Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thanh V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù; Đề nghị phạt tiền bổ sung là 5.000.000 (năm triệu) đồng; Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 1891 là ma túy thu giữ của Nguyễn Thanh V còn lại sau giám định (được đựng trong khẩu trang màu đen); Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen - trắng và số tiền 1.600.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

2 Tại Cơ quan điều tra c ng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh V thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Biên bản bắt người phạm tội quả tang có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Nguyễn Thanh V đã có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy có khối lượng là 0,2266 (không phẩy hai hai sáu sáu) gam, loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cho nên, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 là có căn cứ.

3 Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Đây là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo v n cố ý thực hiện. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo c ng như phòng ngừa chung tội phạm cho xã hội. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên khi lượng hình cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Ngoài ra, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

4 Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong ghi vụ số 1891 là ma túy thu giữ của Nguyễn Thanh V còn lại sau giám định (được đựng trong khẩu trang màu đen), xét đây là vật cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen - trắng, số Imei: 351859/07/840114/2 đã qua sử dụng, bị cáo khai là tài sản cá nhân dùng để liên lạc với gia đình và số tiền 1.600.000 (một triệu sáu trăm nghìn) đồng là tiền của bị cáo để tiêu xài cá nhân, xét các tài sản này không liên quan đến việc phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Nguyễn Thanh V 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/10/2019.

Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

- Căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Buộc bị cáo nộp phạt số tiền là 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 1891 là ma túy thu giữ của Nguyễn Thanh V còn lại sau giám định (được đựng trong khẩu trang màu đen);

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen - trắng số Imei: 351859/07/840114/2, đã qua sử dụng và số tiền 1.600.000 (một triệu sáu trăm nghìn) đồng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền vào tài khoản tại Kho bạc Nhà nước Quận 4 ngày 27/12/2019 ).

- Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và Lệ Phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2020/HS-ST

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;