Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 181/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 181/2021/HS-ST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 7 năm 2021; tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 178/2021/TLST-HS ngày 01-7-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 178/2021/QĐXXST-HS ngày 09-7-2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn P - sinh năm 1973 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số ** đường V, phường Năng Tĩnh, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 6/10 (9/12); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Ngọc T (đã chết) và bà Vũ Thị L; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15-10-2008 Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phúc thẩm phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 02-3-2011 Công an phường Cửa Bắc, thành phố N xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 25-11-2011 Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị tạm giữ từ ngày 03 tháng 4 năm 2021, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 12 tháng 4 năm 2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Vũ Mạnh H và anh Vũ Trung K (không triệu tập tới phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 03-4-2021, Tổ công tác Công an phường V, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 1A số 3 đường P, phường T, thành phố N phát hiện Vũ Văn P và Lê Quang H, sinh năm 1990; nơi cư trú: Số 69 đường H, phường N, thành phố N đang đứng cạnh xe máy Exciter biển kiểm soát B1-76489 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, P lấy từ túi quần phía sau bên phải ra một chiếc ví da màu nâu, rồi lấy từ trong ví ra 01 túi nilong màu trắng, kích thước khoảng (01x01) cm giao nộp cho Tổ công tác. Tổ công tác đã thu giữ, mở kiểm tra bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (P khai là túi ma túy tổng hợp dạng đá của mình mua để sử dụng). Tổ công tác tiến hành niêm P vật chứng, đưa P, H và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường V, thành phố N lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Tổ công tác còn tạm giữ của P chiếc xe máy Exciter biển kiểm soát B1-76489, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen bạc, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng, 01 chiếc đồng hồ nhãn hiệu FLENT dây da màu nâu, 01 chiếc ví màu nâu (đều đã cũ) và số tiền 130.000 đồng; tạm giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu MI màu vàng nhạt (đã cũ).

Bản kết luận giám định số 445/GĐKTHS ngày 08-4-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 túi nilong màu trắng, kích thước (01x01) cm thu giữ của Vũ Văn P trong P bì thư được niêm P gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu: 0,365 gam (không phẩy ba sáu năm gam).

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Văn P khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Vũ Văn P là lái xe khách chạy tuyến Hà Nội - Thái Bình. Khoảng 08 giờ ngày 02-4-2021, P gặp và mua của một người đàn ông (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng tại khu vực bến xe Giáp Bát, thành phố Hà Nội. P cất gói ma túy vào trong chiếc ví màu nâu rồi tiếp tục lái xe chở khách. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, P về nhà tại số 2/60 đường V, phường N, thành phố N. Khoảng 23 giờ cùng ngày, P cầm chiếc ví màu nâu bên trong có chứa túi ma túy P đã mua trước đó cho vào túi quần phía sau bên phải P đang mặc rồi điều khiển xe máy biển kiểm soát B1- 76489 đi ăn đêm thì Lê Quang H (là bạn xã hội của P) gọi điện cho P hỏi xin số điện thoại một người bạn của P. P hẹn H đến đường P, phường T, thành phố N gặp P để lấy số điện thoại. Một lúc sau, P đi xe máy một mình đến trước cửa số nhà 1A số 3 đường P, phường T, thành phố N thì gặp H đang đứng trước cửa nhà. P xuống xe nói chuyện với H thì bị phát hiện, bắt giữ. Đồng thời, P khai việc P tàng trữ trái phép chất ma túy thì P không nói cho H biết.

Bản Cáo trạng số 179/CT-VKSTPNĐ ngày 30-6-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Vũ Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Vũ Văn P xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay dùng nhục hình. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, vì vậy đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vũ Văn P theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Vũ Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo Vũ Văn P. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen bạc, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng, 01 chiếc đồng hồ nhãn hiệu FLENT dây da màu nâu, 01 chiếc ví màu nâu (đều đã cũ) và số tiền 130.000 đồng nhưng tạm giữ dể bảo đảm thi hành án.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Văn P có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; lời khai của những người làm chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 01 giờ 30 phút ngày 03-4- 2021, tại khu vực trước cửa số nhà 1A số 3 đường P, phường T, thành phố N, Vũ Văn P đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,365 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo Vũ Văn P đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là đối tượng có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Toà án đưa ra xét xử.

[4] Về hình phạt: Xét bị cáo Vũ Văn P là đối tượng có nhân thân xấu đã được giáo dục nhiều lần nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội cho thấy bị cáo là đối tượng khó giáo dục, cải tạo nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy trong P bì niêm P số 445/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen bạc, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng, 01 chiếc đồng hồ nhãn hiệu FLENT dây da màu nâu, 01 chiếc ví màu nâu (đều đã cũ) và số tiền 130.000 đồng là tài sản cá nhân của bị cáo Vũ Văn P xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[7] Đối với Lê Quang H không biết việc Vũ Văn P tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả tự do và trả lại Lê Quang Huy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MI màu vàng nhạt (đã cũ) là đúng quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho Vũ Văn P, do chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe máy Exciter biển kiểm soát B1-76489 hiện chưa xác minh được nguồn gốc, do chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Vũ Văn P bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn P 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 03 tháng 4 năm 2021.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong P bì niêm P số 445/GĐKTHS. Trả lại cho bị cáo Vũ Văn P 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen bạc, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng, 01 chiếc đồng hồ nhãn hiệu FLENT dây da màu nâu, 01 chiếc ví màu nâu (đều đã cũ) và số tiền 130.000 đồng nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 30-6-2021).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Vũ Văn P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Văn P được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi án hành dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 181/2021/HS-ST

Số hiệu:181/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;