Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 169/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 169/2023/HS-ST NGÀY 04/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 8 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 200/2023/TLST-HS, ngày 06 tháng 7 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 259/2023/QĐXXST-HS, ngày 21 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Công M, sinh năm 1995, tại tỉnh An Giang. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm V T, thị trấn V T T, huyện C P, tỉnh A G; nơi ở: Không ổn định; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Phùng Thị T1; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 01-4- 2023 (theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân lập lúc 21 giờ 30 phút ngày 01-4-2023 và kết thúc lúc 22 giờ 10 phút cùng ngày), tạm giam ngày 08-4-2023 “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ ngày 01/4/2023, Tổ công tác 363-Công an quận Bình Tân tuần tra đến trước nhà số 52, đường Tây Lân, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân thì nhìn thấy anh Phan Chí B đang điều khiển xe môtô biển số 61B2-xxxxx chở Lê Công M chạy trên đường có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu dừng xe lại kiểm tra. Qua kiểm tra, đã phát hiện và thu giữ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu trong túi quần phía trước bên phải của M đang mặc. Khi đó, M cho biết là ma túy loại “hàng đá” của riêng M để sử dụng nên đưa tất cả đến Công an phường Bình Trị Đông A xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, M đã khai: Do nghiện ma túy và không biết đường đến địa điểm mua ma túy theo hẹn với người bán nên lúc khoảng 20 giờ 30 phút ngày 01/4/2023, M nhờ anh B dùng xe của M chở dùm đến đó tìm nhà bạn có việc. Khi đến đầu hẻm đường Lũy Bán B, quận Tân Phú thì M kêu anh B đứng ngoài chờ, còn M đi vào trong hẻm gặp tên H (không rõ lai lịch) mua gói ma túy trên với giá 200.000 đồng rồi cất vào trong túi quần mang về để sử dụng và khi trên đường về thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Riêng anh B khai, không biết và cũng không liên quan gì đến ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2551g, loại Methamphetamine của M. Do lời khai của anh B hoàn toàn phù hợp với lời khai của M cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên anh B không bị xử lý hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Công M khai nhận: Do nghiện ma túy và không biết đường đến địa điểm mua ma túy theo hẹn với người bán nên bị cáo có nhờ anh Phan Chí B dùng xe của bị cáo chở dùm đi công việc. Khi đến đầu hẻm đường Lũy Bán B, quận Tân Phú thì bị cáo kêu anh B đứng ngoài chờ có việc, còn bị cáo đi vào trong mua gói ma túy loại “hàng đá” của tên H (không rõ lai lịch) với giá 200.000 đồng rồi cất vào trong túi quần mang về để sử dụng và khi đang trên đường về thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Riêng anh B không biết và cũng không liên quan gì đến ma túy của bị cáo nên nay bị cáo thừa nhận chỉ có một mình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về khối lượng ma túy đã giám định và việc giải quyết vật chứng.

Tại Cáo trạng số: 192/CT-VKS, ngày 03 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Công M ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến: Bị cáo Lê Công M đã có hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2551g, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng, đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Oppo và 01 chiếc xe mô tô biển số 61B2-xxxxx; tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy sau giám định.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Lê Công M tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào lúc 21 giờ ngày 01/4/2023, tại trước nhà 52, đường Tây Lân, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân. Bị cáo đã có hành vi cất giữ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định số: 3178/KL-KTHS, ngày 10/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì, “Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Lê Công M (đương sự), Lê Huy Hoàng (người chứng kiến), Nguyễn Ngọc T (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân”, gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2551g, loại Methamphetamine”. Do đó, bị cáo Lê Công M đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định khối lượng ma túy…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Riêng đối với anh Phan Chí B, do không biết và cũng không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo nên anh B không bị xử lý hình sự là có căn cứ; còn đối với tên H bán ma túy cho bị cáo, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.

[4] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc xe môtô biển số 61B2-xxxxx, số khung, số máy mài mất số, không xác định số nguyên thủy (đã qua sử dụng) là xe của bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy thì, do xe thuộc trường hợp không được phép sử dụng cùng với 01 chiếc điện thoại di động OPPO, thuê bao 036474xxxx, 078418xxxx-Lê Công M của bị cáo có sử dụng liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu tất cả để sung quỹ Nhà nước. Riêng 01 gói niêm phong bên trong chứa ma túy sau giám định-Lê Công M là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Bị cáo Lê Công M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Lê Công M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 01-4-2023.

2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước gồm: 01 chiếc xe môtô biển số 61B2-xxxxx, số khung, số máy mài mất số, không xác định số nguyên thủy (đã qua sử dụng) và 01 chiếc điện thoại di động OPPO, thuê bao 036474xxxx, 078418xxxx-Lê Công M.

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong chứa ma túy sau giám định-Lê Công M.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số: NK23/188TAM, ngày 03/7/2023)

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Lê Công M phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Bị cáo Lê Công M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 169/2023/HS-ST

Số hiệu:169/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;