Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 158/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 158/2020/HS-PT NGÀY 14/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 136/2020/TLPT-HS ngày 03/6/2020 đối với bị cáo Lê Văn H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2020/HS-ST ngày 28/4/2020 của Toà án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Văn H (tên gọi khác: C); sinh năm 1996, tại Thanh Hóa; nơi cư trú: Xã W, huyện Đ, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C1 và bà Lê Thị K (đều đã chết); bị cáo có vợ là Trần Thị Bảo A và có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án số 130/2014/HSPT ngày 29/8/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt Lê Văn H 26 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” và 06 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/9/2013. Ngày 31/8/2015 bị cáo được đặc xá về địa phương và chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn H:

1. Bà Trần Thị Phương L - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

2. Ông Lê Xuân Anh P - Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV TV - Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn N và Lê Văn H là đối tượng nghiện ma túy. Chiều ngày 23/12/2019, N điều khiến xe mô tô biển kiểm soát 76E-15270 của ông Nguyễn T (cha đẻ) gặp H tại Bệnh viện Đa khoa huyện Đ, tại đây H đưa cho N 1.500.000 đồng (trong đó 900.000 đồng là tiền H trả nợ N, 600.000 đồng là tiền H nhờ N mua hộ ma túy về sử dụng). Khoảng 16 giờ cùng ngày N tiếp tục điều khiển xe mô tô BKS 76E-15270 đi đến khu vực ngã tư đường vành đai 30/4 đoạn cắt đường Y nối dài thuộc thành phố B (cách đèn đỏ 50m) gặp người đàn ông tên H1 để mua ma túy. N đưa cho người tên H1 1.500.000 đồng và nhận lại 01 gói ma túy giấu trong người rồi điều khiển xe về lại nhà mình. Sau đó, N điện thoại cho H đến nhà mình tại xã W, huyện Đ. Sau khi cùng nhau sử dụng ma túy, số ma túy còn lại N và H phân nhỏ gói trong 12 gói nhựa màu xanh kích thước 01x03cm, khối lượng mỗi gói khoảng 0,09 gam. N đưa cho H 4 gói, H nhờ N cất giữ 02 gói, còn 02 gói mang về sử dụng. N giấu 10 gói ma túy dưới nệm trong phòng ngủ của mình. Sáng ngày 24/12/2019, N chuẩn bị lấy dụng cụ ra sử dụng ma túy thì bị Công an bắt quả tang, N đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ 10 gói nhựa màu xanh có chứa tinh thể rắn màu trắng N khai là ma túy đá.

Bản kết luận số 1058/GĐMT-PC09 ngày 25/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Tinh thể màu trắng chứa trong 10 gói nhựa gửi giám định là ma túy đá, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,9076 gam.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2020/HSST ngày 28/4/2020 của Toà án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn N; xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo.

Ngày 07 tháng 5 năm 2020, bị cáo Lê Văn H kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án hình sự sơ thẩm đã nêu.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đã phân t ch, đánh giá t nh chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 - Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn H trình bày quan điểm: Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, người bào chữa không có ý kiến gì mà chỉ đi sâu vào phân t ch các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi nhận thức được hành vi phạm tội của mình bị cáo đã ra đầu thú, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc hộ cận nghèo lâu năm. Mặc khác, bị cáo chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với lượng ma túy bị cáo nhờ mua hộ nên lượng ma túy bị cáo tàng trữ chỉ có khoảng 0,18gam nhưng cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là nghiêm khắc. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Lê Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Do nghiện ma túy, Nguyễn Văn N và Lê Văn H mua ma túy về sử dụng chung. Vào chiều 23/12/2019 sau khi H đưa cho N số tiền 1.500.000 đồng (trong đó 900.000 đồng là tiền H trả nợ cho N, 600.000 đồng là tiền H nhờ N mua ma túy) N đi đến khu vực ngã tư đường vành đai 30/4 đoạn cắt đường Y nối dài thuộc thành phố B mua ma túy với số tiền 1.500.000 đồng rồi đem về nhà N ở xã W, huyện Đ. Tại đây Nguyễn Văn N và Lê Văn H sau khi cùng nhau sử dụng ma túy đã phân nhỏ số ma túy còn lại gói trong 12 gói nhựa màu xanh k ch thước 01x03cm, trọng lượng mỗi gói khoảng 0.09 gam. N đưa cho H 04 gói, H nhờ N cất giữ 02 gói, còn 02 gói mang về sử dụng. N giấu 10 gói ma túy dưới nệm trong phòng ngủ của mình. Sáng ngày 24/12/2019 Cơ quan điều tra Công an huyện Buôn Đôn bắt quả tang thu giữ toàn bộ số ma túy trên. Kết quả giám định là ma túy đá, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,9076 gam. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Văn H với mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, bị cáo là người nhờ N mua ma túy hộ nên bị cáo chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với phần ma túy bị cáo nhờ mua hộ, khi bị bắt quả tang thu giữ 10 gói ma túy loại Methamphetamine thì trong đó H chỉ có 02 gói, lượng ma túy của H rất ít (khoảng 0,18 gam) so với lượng ma túy thu giữ của N. Sau khi phạm tội, bị cáo ra đầu thú và thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn H.

Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

[3] Về án ph : Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Lê Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn H.

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2020/HSST ngày 28/4/2020 của Toà án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

[2] Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3] Về án ph hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Văn H không phải chịu án ph hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 158/2020/HS-PT

Số hiệu:158/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;