Bản án 154/2021/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 154/2021/HS-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 156/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 156/2021/HSST-QĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyn Văn L, sinh ngày 01/01/1993 tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Thôn G, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: Lớp 8/12; Con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1970; Vợ: Phạm Thị H, sinh năm 1998; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; Anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ ba trong gia đình. Tiền sự : Không.

Tiền án: Ngày 11/9/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Đánh bạc, số tiền đánh bạc 23.750.000 đồng (Bản án số 90/2012/HSST). Tổng hợp hình phạt 07 tháng 22 ngày tù của bản án số 111/2011/HSST ngày 26/12/2011 của TAND huyện Sơn Dương (số tiền đánh bạc 3.360.000 đồng), buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 02 năm 01 tháng 22 ngày tù, phạt tiền 4.000.000 đồng, án phí HSST 200.000 đồng. Ngày 02/7/2014 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa chấp hành hình phạt bổ sung và tiền án phí.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/9/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

* Những người làm chứng:

1. Vũ Phi H, sinh năm 1991 Địa chỉ: Tổ 4, phường N, thị trấn P, huyện Ph, tỉnh Phú Thọ.

2. Cao Văn Tr, sinh năm 1999 Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

3. Trần Viết N, sinh năm 1997 Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (Đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 14/9/2021, bị cáo Nguyễn Văn L. một mình điều khiển xe mô tô của gia đình (không nhớ biển kiểm soát) đi đến ngã ba xã S, huyện S. chơi. Tại đây bị cáo gặp một người đàn ông không xác định được tên tuổi, địa chỉ, Bị cáo mua của người đó 1.000.000 đồng được 15 túi nilon màu trắng kích thước (1,8x2,2) cm bên trong mỗi túi đều chứa ma túy dạng chất tinh thể màu trắng và 12 túi nilon màu trắng kích thước (2x2,5) cm bên trong mỗi túi có 02 viên ma túy dạng viên nén hình tròn màu đỏ, số ma túy trên được đựng trong bao thuốc là nhãn hiệu Thăng long mầu vàng. Bị cáo cất số ma túy vừa mua được vào túi quần đang mặc rồi điều khiển xe đi về đến đoạn vắng người thuộc thôn T, xã H, huyện S thì đi lên đồi cây bạch đàn ở ven đường và lấy 01 túi nilon ma túy dạng tinh thể màu trắng và 04 viên nén ma túy màu đỏ trộn lẫn vào nhau sử dụng bằng hình thức đốt hít ma túy vào cơ thể; số ma túy còn lại bị cáo cất vào túi quần đang mặc trên người rồi đi về nhà. Khoảng 23 giờ ngày 14/9/2021, bị cáo đang ở nhà thì Vũ Phi H. là bạn của bị cáo đến nhà chơi và ngủ lại nhà bị cáo.

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 15/9/2021, bị cáo và H. đi bộ ra khu vực sông Lô để xem câu cá và gặp Cao Văn Tr. và Trần Viết N. cũng là bạn của bị cáo, bị cáo rủ Tr. và N. đi thuê nhà cho H. nghỉ. Khoảng 14 giờ cùng ngày bị cáo, H, Tr. và N. đến nhà nghỉ Trúc Vàng ở thôn K, xã H, huyện S. thuê phòng 301 để cho H. nghỉ. Hồi 14 giờ 40 phút cùng ngày Tổ công tác Công an xã H, huyện S. đến kiểm tra phòng nghỉ, phát hiện bị cáo có dấu ma túy trong người, bị cáo đã tự giác giao nộp: 14 túi nilon màu trắng bên trong có chất tinh thể màu trắng, 10 túi nilon màu trắng bên trong mỗi túi có chứa 02 viên dạng tròn màu đỏ, một mặt có chữ WY, một mặt không có chữ và khai nhận đây là ma túy đá và ma túy ngựa, bị cáo mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong số ma túy bị cáo giao nộp, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. H, Tr. và N. không biết bị cáo L. tàng trữ ma túy trong người.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với H, Tr, N. và bị cáo L. Kết quả đều (+) dương tính với ma túy. Bị cáo, H, Tr. và N. khai nhận trước đó đã sử dụng ma túy.

Tại Kết luận giám định số 831/GĐKTHS ngày 19/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất tinh thể màu trắng gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,910g (Một phẩy chín một không gam). 20 viên ném dạng tròn màu đỏ là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,998g (Một phẩy chín chín tám gam). Tổng khối lượng là 3,908 gam (Ba phẩy chín không tám gam) Methamphetamine.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 121/CT-VKSSD ngày 24 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L. từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa ma túy là tang vật của vụ án.

Ngoài ra, đại diện viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì, nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và nội dung cáo trạng truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 40 phút ngày 15/9/2021, tại thôn K, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Bị cáo Nguyễn Văn L. đã có hành vi tàng trữ trái phép 3,908g (ba phẩy chín không tám gam) Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Nguyễn Văn L. là người có năng lực hành vi dân sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đây là lỗi cố ý trực tiếp. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ chấp nhận.

[2]. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 11/9/2012 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, chưa chấp hành hình phạt bổ sung và án phí nên chưa được xóa án tích. Do vậy, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm, quy định tại đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo để lên mức án cho phù hợp.

[3]. Về mức án đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 11/9/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương xử phạt tù về tội “Đánh bạc”, bị cáo không lấy đó làm bài học cải tạo bản thân mà còn có hành vi phạm tội mới. Lần phạm tội này thuộc Tr. hợp tái phạm, số lượng ma túy tàng trữ tương đối lớn. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn trong một thời gian dài nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo Nguyễn Văn L. không có tài sản gì có giá trị, tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của bị cáo 3,908g (Ba phẩy chín không tám gam) Methamphetamine. Sau khi lấy đi giám định số còn lại cùng bao bì được niêm phong trong một phong bì có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo. Đây là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[6]. Về các vấn đề khác:

Đối với Vũ Phi H, Cao Văn Tr, Trần Viết N. không biết bị cáo L. tàng trữ trái phép chất ma túy nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Tr, N, H. và bị cáo L, Công an huyện Sơn Dương đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (Quyết định số 368, 366, 367 ngày 12/10/2021 và số 348a ngày 01/10/2021). Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo L. ở khu vực ngã ba xã S, huyện S, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Văn L. phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) và được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L. 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (15/9/2021).

2. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong có chứa Methamphetamine, ngoài bì có dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/12/2021 giữa Công an huyện Sơn Dương với Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Dương).

3. Căn cứ vào Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Bị cáo Nguyễn Văn L. phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 154/2021/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:154/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;