TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 152/2021/HSST NGÀY 15/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 4 năm 2021 tại Phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 53/2021/HSST ngày 23 tháng 02 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2021/QĐXXST-HS ngày 12/3/2021 và quyết định hoãn phiên toà số 36/2021/QĐST-HS ngày 29/3/2021, đối với bị cáo:
Dương Thị Ngọc A; sinh năm 1986 tại Đắk Lắk; hộ khẩu thường trú: thị trấn M, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở: phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn N (chết) và con bà Hồ Thị L; bị cáo có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2018 (12/10/2018); tiền sự: Không; tiền án: Ngày 13/11/2019, bị Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo bản án số 330/2019/HSST, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo chưa chấp hành hình phạt, hiện bị cáo đang được tạm hoãn thi hành án theo quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù số 12/2020/QĐ-CA ngày 29/9/2020 của Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; thời hạn được hoãn chấp hành hình phạt tù là 12 tháng, tính từ ngày 29/9/2020 đến ngày 29/9/2021.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/8/2020 đến ngày 29/8/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị cáo Dương Thị Ngọc A có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 11 giờ 15 phút ngày 21/8/2020, Công an quận Thủ Đức kiểm tra tại phòng 8A phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang Dương Thị Ngọc A có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tang vật thu giữ trên mặt bàn màu hồng gồm: 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu; 04 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu được gói trong khăn giấy màu trắng.
Tại cơ quan điều tra, Dương Thị Ngọc A khai nhận: Lúc 21 giờ ngày 20/8/2020, Dương Thị Ngọc A đến khu vực Ngã tư Ga, Quận 12 gặp người thanh niên không rõ lai lịch mua 05 gói nylon chứa ma tuý với giá 700.000 đồng đem về phòng trọ 8A, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cất giữ để sử dụng. Vào lúc 11 giờ 15 phút ngày 21/8/2020, Công an quận Thủ Đức kiểm tra tại phòng 8A phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang và thu giữ số ma tuý trên.
Vật chứng vụ án:
- 02 (hai) gói niêm phong ghi số vụ 1454 có chữ ký của Giám định viên Võ Anh T, bên trong là ma tuý còn lại sau giám định.
- 01 (một) chai nhựa được chế sử dụng ma túy.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen có số thuê bao 0342591905.
Theo Kết luận giám định số 1454/KLGĐ-H ngày 28/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận về đối tượng giám định:
- Tinh thể không màu trong 01 gói nylon, được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Dương Thị Ngọc A và hình dấu Công an phường Tam Bình là: ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 0,1110g, loại Methamphetamine.
- Tinh thể không màu trong 04 gói ny lon (để trong 01 gói giấy), được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Dương Thị Ngọc A và hình dấu Công an phường Tam Bình là: ma tuý ở thể rắn, có tổng khối lượng 5,8457g, loại Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 05 tháng 02 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đã truy tố bị cáo Dương Thị Ngọc A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa: Bị cáo Dương Thị Ngọc A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức phát biểu và kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Dương Thị Ngọc A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ để xử phạt bị cáo Dương Thị Ngọc A từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù, tổng hợp hình phạt với bản án số 330/2019/HSST ngày 13/11/2019 của Toà án nhân dân quận Thủ Đức, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.
Bị cáo không tranh luận hoặc bào chữa gì, lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên toà có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau: Vào lúc 11 giờ 15 phút ngày 21/8/2020, tại phòng 8A phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Công an quận Thủ Đức kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Dương Thị Ngọc A có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” để sử dụng. Qua giám định 02 gói tang vật thu được là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1110g, loại Methamphetamine và 5,8457g, loại Methamphetamine. Như vậy, bị cáo đã tàng trữ ma tuý ở thể rắn, có tổng khối lượng 5,9567g, loại Methamphetamine. Bản thân bị cáo đã bị Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 theo bản án số 330/2019/HSST ngày 13/11/2019, chưa được xoá án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Với hành vi trên, đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm g, o khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo một mình nuôi dưỡng ba con nhỏ, trong đó con nhỏ nhất dưới 36 tháng tuổi, nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
Ngoài ra, trước khi thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án này, bị cáo bị Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, theo bản án số 330/2019/HSST ngày 13/11/2019 nêu trên, bị cáo đang được tạm hoãn thi hành án, chưa chấp hành hình phạt. Do đó, cần áp dụng Điều 55, Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để tổng hợp hình phạt.
Riêng người thanh niên bán ma tuý cho bị cáo Dương Thị Ngọc A, đến nay chưa xác định được lai lịch. Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục xác minh khi làm rõ xử lý sau.
Về xử lý vật chứng:
- 02 (hai) gói niêm phong ghi số vụ 1454 có chữ ký của Giám định viên Võ Anh T, bên trong là ma tuý còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu huỷ.
- 01 (một) chai nhựa là công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen có số thuê bao 0342591905, xét không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành nghĩa vụ nộp án phí của bị cáo.
[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Dương Thị Ngọc A phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Dương Thị Ngọc A: 07 (bảy) năm tù.
Tổng hợp hình phạt với hình phạt 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù tại bản án số 330/2019/HSST ngày 13/11/2019 của Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; bị cáo Dương Thị Ngọc A phải chấp hành hình phạt chung là 14 (mười bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 21/8/2020 đến ngày 29/8/2020.
3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu huỷ:
+ 02 (hai) gói niêm phong ghi số vụ 1454 có chữ ký của Giám định viên Võ Anh T, bên trong là ma tuý còn lại sau giám định.
+ 01 (một) chai nhựa.
- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen có số thuê bao 0342591905 nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành phần án phí.
(Vật chứng tại phiếu nhập kho số NKT2021/089 ngày 27/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức)
4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 152/2021/HSST
Số hiệu: | 152/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về