Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 75/2021/TLST- HS ngày 11 tháng 11 năm 2021, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyn Văn B, sinh năm 1998 tại Kiên Giang; Nơi cư trú: Ấp T, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Ngư phủ; Trình độ văn hóa: 5/12; Quốc Tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn O, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1974; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2021, bị cáo có mặt tại phiên tòa

Người làm chứng: Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1991 (Vắng mặt) Trú tại: Khu phố M, thị trấn M, huyện C, tỉnh Kiên Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 4/2021, Hà Châu T nói với Nguyễn Vũ L là T có 02 khẩu súng cần bán, L mới nói lại sự việc trên với Hồ Hoàng Ng thì Ng nói với L dẫn đi gặp T để nói chuyện. Tuy nhiên, khi đến gặp thì T cho rằng chỉ nói đùa với L. Vì vậy, Ng nghi ngờ L gài bẫy cho công an bắt mình nên tức giận. Sau đó, Ng kêu Nguyễn Văn B đến nhà để tìm L giải quyết mâu thuẫn. Đến khoảng 13 giờ, ngày 01/6/2021 B rủ thêm Nguyễn Hoàng A và G (chưa rõ lai lịch) đến nhà của L ở ấp T, xã G, huyện C để tìm L. Lúc này, mẹ của L bà Lương Thị K trình báo đến Công an xã G, huyện C. Nhận được tin, Công an xã G tiến hành đến nhà bà K và mời B, A về để làm rõ sự việc và kiểm tra, phát hiện trong túi quần Jean bên trái của B đang mặc có một bịch nylon kích thước 3,9cm x 3,5cm chứa các hạt tinh thể nghi là ma túy đá nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn B thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Nguồn ma túy trên do B mua của một người (không rõ giới tính, nhân thân, lai lịch) qua điện thoại tại khu vực phía trước chùa của người dân tộc Khmer ở phường V, thành phố R với giá 1.000.000 đồng vào khoảng 20 giờ ngày 31/5/2021. Đến khoảng 03 giờ ngày 01/6/2021, B lấy ma túy sử dụng một ít, phần còn lại thì cất giữ trong túi quần để nhằm mục đích sử dụng nhưng chưa sử dụng hết thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Kết quả xét nghiệm chất ma túy vào ngày 01/6/2021 tại Trạm Y tế xã G, huyện C thể hiện Nguyễn Văn B dương tính với chất ma túy loại Methamphetamine.

Tại bản Kết luận giám định 597/KL-KTHS, ngày 07/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: “Các hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất màu trắng chứa trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 2,3470 gam.” Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Văn B đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội.

Đồ vật, tài liệu thu giữ, tạm giữ, hướng xử lý vật chứng gồm: 01 (một) phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 597/2021, ngày 08 tháng 6 năm 2021, người chứng kiến Lê Quốc Lil, giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang. Phong bì được niêm phong trên chứa ma túy còn lại sau giám định đã được nhập kho vật chứng đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với điện thoại của B dùng liên lạc vào việc mua ma túy, B đã làm mất và không nhớ được số điện thoại đã sử dụng nên không thu giữ được Đối với người đã bán trái phép chất ma túy cho B đến nay vẫn chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa tiến hành triệu tập, làm việc được. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành tiếp tục điều tra, làm rõ khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý sau.

Đối với Hà Châu T, trong quá trình điều tra T đã đi ghe biển nên không triệu tập làm việc được. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành tiếp tục xác minh làm rõ về vụ việc T có 02 khẩu súng theo như lời khai của Nguyễn Vũ L. Nếu xác định có dấu hiệu tội phạm thì sẽ tiến hành xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số: 82/CT-VKS-CT ngày 10/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 597/2021, ngày 08 tháng 6 năm 2021, người chứng kiến Lê Quốc Lil, giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.

Bị cáo được nói lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu cũng như kết quả điều tra của Cơ quan điều tra và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành. Từ đó, có đủ căn cứ để xác định: Vào khoảng 13 giờ, ngày 01/6/2021 Nguyễn Văn B cùng Nguyễn Hoàng A và G (không xác định được lai lịch) đi đến nhà của Nguyễn Vũ L trú tại ấp T, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang để tìm L giải quyết mâu thuẫn. Nhưng khi đến nơi thì L trốn trong nhà không dám ra cho B gặp mặt. Lúc này, bà Lương Thị K (mẹ L) điện thoại trình báo đến Công an về sự việc có một nhóm đối tượng lại nhà bà quậy phá. Nhận được tin báo, Công an xã G tiến hành đến nhà bà K mời B, A, G về trụ sở để làm rõ sự việc đồng thời kiểm tra, phát hiện trong túi quần Jean bên trái của B đang mặc có 01 bịch ma túy loại Methamphetamine khối lượng 2,3470 gam.

Căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ... ; c) Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; ... Như vậy, hành vi cất giấu 2,3470 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng của bị cáo B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như đã viện dẫn nêu trên.

[3] Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bản thân bị cáo đủ nhận thức và biết được sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật và gây ra bao hệ lụy xấu cho chính bản thân cũng gia đình bị cáo. Thế nhưng chỉ vì nghiện ma túy và để có ma túy sử dụng bị cáo đã cố ý tìm mua và tàng trữ 2,3470 gam ma túy loại Methamphetamine để dành sử dụng thì bị Công an phát hiện. Nếu bị cáo biết tôn trọng pháp luật và sống có trách nhiệm với bản thân thì không phải chịu sự nghiêm trị của pháp luật. HĐXX nghị án thảo luận cần có mức án tương xứng và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân bị cáo tốt không có tiền án, tiền sự nên cần xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để cân nhắc hình phạt khi lượng hình là phù hợp.

[6] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận.

[7] Về đánh giá vật chứng, xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 597/2021, ngày 08 tháng 6 năm 2021, người chứng kiến Lê Quốc Lil, giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang, đây là vật cấm lưu hành và tang trữ nên cần xử tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

[8] Về án phí: Xử buộc bị cáo phải có nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 01/6/2021.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xử: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật, vụ số 597/2021, ngày 08 tháng 6 năm 2021, người chứng kiến Lê Quốc Lil, giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang.

Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đang quản lý theo quyết định chuyển giao vật chứng số: 59/QĐ- VKSCT ngày 10/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án Xử buộc bị cáo Nguyễn Văn B phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;