Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 146/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY P, TỈNH BÌNH T

BẢN ÁN 146/2021/HS-ST NGÀY 16/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy P, tỉnh Bình T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2021/HSST-QĐ ngày 18 tháng 10 năm 2021 và Thông báo số 06/2021/TB-TA ngày 28 tháng 10 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đức Q (Tên gọi khác: Quậy), sinh ngày 26-5-1997 tại tỉnh Bình T. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Hà T 1, xã Chí C, huyện Tuy P, tỉnh Bình T; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965; chưa có vợ, con.

Tiền án: Không; tiền sự: 01 (Một). Ngày 21/5/2021, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Chí C ban hành Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chưa xóa tiền sự).

Bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Trương Bình Q, sinh ngày 10-5-1998 tại tỉnh Bình T.

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Hà T 1, xã Chí C, huyện Tuy P, tỉnh Bình T; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương T, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1965; chưa có vợ, con.

Tiền án: Không; tiền sự: 02 (Hai). Ngày 29-11-2019, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Chí C ban hành Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chưa xóa tiền sự) và ngày 29-3-2021, bị Tòa án nhân dân huyện Tuy P ban hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 12 tháng (chưa thi hành).

Bị cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 20 phút, ngày 07-5-2021, tại khu vực Gành Son thuộc thôn Hà T 1, xã Chí C, huyện Tuy P, tổ tuần tra Công an xã Chí C phối hợp với Quân sự xã Chí C phát hiện Nguyễn Đức Q có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trên mặt đất, chỗ Quang ngồi có một gói nylon không mà được hàn kín hai đầu, có kích thước khoảng (01cm x 2,5cm), bên trong chứa chất rắn màu trắng, nghi là ma túy. Tại Kết luận giám định số 576/KLGĐ-PC09 ngày 17/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình T, kết luận: Mẫu M có khối lượng 0,2203 gam là Methamphetamine;

Nguyễn Đức Q và Trương Bình Q khai: Lúc 19 giờ 30 phút, ngày 07-5-2021, Trương Bình Q rủ Quang hùn tiền mua ma túy sử dụng. Do cùng nghiện ma túy nên Quang đã đồng ý và nói Quyền cho mượn 100.000 đồng để mua ma túy. Quyền gặp Nghĩa (không rõ nhân thân, lai lịch) mua một gói ma túy giá 200.000 đồng. Sau khi có ma túy, Quyền đưa cho Quang gói ma túy, nhận lại của Quang 100.000 đồng và hẹn đến khu vực Gành Son để sử dụng. Trong lúc Quyền đi mua đồ và lấy dụng cụ để sử dụng thì lực lượng chức năng bắt quả tang Quang đang tàng trữ gói ma túy trên.

Về tang, vật chứng của vụ án: Thu giữ một gói ma túy, đã cắt lấy mẫu và 0,1280 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 576;

Tại Bản Cáo trạng số 129/CT-VKS-TP, ngày 29 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy P đã truy tố Nguyễn Đức Q và Trương Bình Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy P giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

+ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Q từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù và Trương Bình Q từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị tịch thu tiêu hủy một gói nylon và 0,1280 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 576.

- Các bị cáo Nguyễn Đức Q và Trương Bình Q thừa nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy P đã truy tố và việc truy tố các bị cáo là đúng, không oan. Các bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Đức Q và Trương Bình Q không có ý kiến, cũng như không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện, đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và biên bản sự việc, đã làm rõ: Vào lúc 21 giờ 20 phút, ngày 07 - 5 - 2021, bị cáo Nguyễn Đức Q bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang đang tàng trữ một gói nylon chứa ma túy tại khu vực Gành Son thôn Hà T 1, xã Chí C, huyện Tuy P. Tiến hành đấu tranh, lực lượng chức năng xác định gói nylon chứa ma túy là do bị cáo Trương Bình Q và bị cáo Nguyễn Đức Q hùn tiền, mỗi người 100.000 đồng và bị cáo Trương Bình Q là người trực tiếp mua của một người thanh niên tên Nghĩa (không rõ nhân thân) với mục đích cùng sử dụng chung. Trong lúc bị cáo Trương Bình Q đi mua đồ và lấy dụng cụ sử dụng ma túy thì lực lượng chức năng kiểm tra thu giữ tại chỗ ngồi của bị cáo Nguyễn Đức Q 01 gói nylon có chứa chất rắn. Qua giám định đã xác định chất rắn chứa trong gói nylon có kích thước (01 x 2,5)cm là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2203 gam (Tại Bản kết luận giám định số 576/ KLGĐ-PC09 ngày 17/5/2021). Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Đức Q và Trương Bình Q cùng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Các bị cáo Nguyễn Đức Q và Trương Bình Q là người đã trưởng thành nên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết hành vi lén lút mua ma túy để sử dụng trái phép là xâm phạm đến nguyên tắc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy nhưng do bị nghiện nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Methamphetamine là chất ma túy, gây ảo giác về thực tế nhận thức, tác động trực tiếp lên thị giác và hệ thần kinh vận động, vì thế nó ảnh hưởng xấu đến việc làm chủ hành vi và sức khỏe của người sử dụng nhưng để thỏa mãn cho nhu cầu của mình mà các bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi của các bị cáo rất nguy hiểm, không những tiếp tay cho các tệ nạn xã hội và làm phát sinh các loại tội phạm khác, mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho gia đình và cộng đồng dân cư. Vì vậy, cần phải xử lý các bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để các bị cáo có thời gian tu dưỡng bản thân, học tập, lao động và rèn luyện bản thân để trở thành công dân tốt, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, bị cáo Trương Bình Q và bị cáo Nguyễn Đức Q cùng nhau hùn tiền để mua ma túy sử dụng. Trong đó bị cáo Trương Bình Q là người trực tiếp mua ma túy, sau đó đã giao ma túy lại cho bị cáo Nguyễn Đức Q cất giữ với mục đích cùng sử dụng chung. Do đó, vai trò của các bị cáo là như nhau và phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi mà các bị cáo đã gây ra.

[5] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Mặc dù các bị cáo không có tình tiết tăng nặng nhưng các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy lâu năm và đều có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc khi lượng hình đối với các bị cáo.

[6] Về tang, vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy một gói nylon, đã cắt lấy mẫu và 0,1280 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 576;

[7] Đối với người bán ma túy cho bị cáo Trương Bình Q, do chưa rõ lai lịch nên tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[8] Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Các bị cáo Nguyễn Đức Q và Trương Bình Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 268, Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Đức Q và Trương Bình Q cùng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức Q 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

+ Xử phạt bị cáo Trương Bình Q 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy một gói ny lon và 0,1280 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 576;

(Tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra với Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy P ngày 04-10-2021).

Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Đức Q và Trương Bình Q, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16-11-2021)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 146/2021/HS-ST

Số hiệu:146/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;