Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 145/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 145/2022/HS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 148/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Đặng Ngọc Anh, sinh năm 2000 tại tỉnh Đ; địa chỉ thường trú: Thôn 10, xã Đ, huyện Đ, tỉnh K; chỗ ở trước khi bị bắt: Đường NL10, khu phố 3B, phường T, thị xã B, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; con ông Đặng Ngọc N, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1963; có 05 A chị em, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất là bị cáo; tiền án, tiền sự: Không; ngày 25/5/2022, bị bắt phạm tội quả tang, bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 25/5/2022, tại đoạn đường NJ21, thuộc khu phố 3B, phường T, thị xã B, tỉnh B, lực lượng Cảnh sát Điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thị xã B phối hợp lực lượng Công an phường T tuần tra, phát hiện Đặng Ngọc A đang điều khiển xe môtô hiệu Wave, biển số 61T8-7176 chạy trên đường có dấu hiệu nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện trong vành mũ lưỡi trai màu đen mà Ngọc A đang đội trên đầu có 01 gói nylon hàn kín, chứa tinh thể màu trắng. Ngọc A khai chất tinh thể màu trắng là ma túy đá (Methamphetamine), Ngọc A cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Ngọc A.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nylon màu trắng, hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 xe môtô nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số: 61T8- 7176, số máy: VPJL1P50FMH083858, số khung: J083858.

Tại Cơ quan Điều tra, Đặng Ngọc A khai nhận: Ngọc A bắt đầu sử dụng ma túy đá từ đầu năm 2017. Khoảng 22 giờ ngày 22/5/2022, Ngọc A đón xe ôm đi đến Nhà nghỉ 405, thuộc khu phố 4, phường T, thị xã B, tỉnh B gặp bạn tên Tr (không rõ nhân thân, lai lịch) tại phòng không rõ số, đang sử dụng ma túy đá thì Tr rủ Ngọc A cùng sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong, Ngọc A thấy còn dư ma túy trong gói nylon hàn kín nên xin Tr cho đem về để tiếp tục sử dụng thì Tr đồng ý. Ngọc A lấy gói ma túy cất vào vành mũ lưỡi trai màu đen của mình đang đội rồi quay về phòng trọ, Nhà trọ Nhật Quang thuộc khu phố 3B, phường T, thị xã B, tỉnh B. Đến khoảng 03 giờ 20 phút ngày 25/5/2022, Ngọc A lấy mũ lưỡi trai màu đen có cất giấu gói ma túy đội lên đầu và điều khiển xe môtô biển số 61T8-7176 đi tìm nơi sử dụng. Khi Ngọc A điều khiển xe đến đoạn đường NJ21, thuộc khu phố 3B, phường T, thị xã B, tỉnh B thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện ma túy trong mũ đang đội trên đầu Ngọc A.

Theo Kết luận giám định số 239/KL-KTHS (MT) ngày 31/5/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh B, kết luận: Mẫu tinh thể (bị thu giữ) gửi giám định là ma tuý, có khối lượng/trọng lượng là 0,1272 gam, loại Methamphetamine.

Đối với xe môtô biển số 61T8-7176, xe do ông Phạm Bá T1 (sinh năm 1966; địa chỉ thường trú: Ấp T, xã A, thị xã B, tỉnh B) đứng tên đăng ký. Ngày 24/5/2022, ông Phạm Bá P (sinh năm 1988; địa chỉ thường trú: Ấp T, xã A, thị xã B, tỉnh B) là con của ông T1 sử dụng xe đi đến nhà bạn tại Nhà trọ N thuộc khu phố 3B, phường T, thị xã B, tỉnh B chơi thì Ngọc A mượn xe đi công việc. Ông P và ông T1 không biết Ngọc A sử dụng xe để đi sử dụng ma túy. Ngày 17/8/2022, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã B xử lý vật chứng giao trả xe cho ông T1.

Tại bản Cáo trạng số 151/CT-VKSBC ngày 30/8/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B, tỉnh B truy tố bị cáo Đặng Ngọc A về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B, tỉnh B tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đặng Ngọc A về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị Đặng Ngọc A từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng của vụ án: Đề nghị tịch thu tiêu hủy đối 01 (một) Bì thư được niêm phong ghi số 239/PC09 có chữ ký của Đặng Ngọc A (người chứng kiến), chữ ký của Bùi Trung C (bên nhận mẫu), chữ ký của Nguyễn Hoàng N (bên trả mẫu) và hình dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh B, khối lượng mẫu vật niêm phong: M = 0,0365gam; loại Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số 239/KL-KTHS (MT) ngày 31/5/2022, Biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định ngày 25/5/2022).

Bị cáo Đặng Ngọc A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, nội dung bản Cáo trạng số 151/CT-VKSBC ngày 30/8/2022 và Kết luận giám định số 239/KL-KTHS (MT) ngày 31/5/2022.

Tại phiên tòa, bị cáo không đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận gì để đối đáp với Kiểm sát viên về nội dung luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã B, tỉnh B, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B, tỉnh B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội:

Tại phiên toà, bị cáo Đặng Ngọc A đã thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B, tỉnh B đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:

Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 25/5/2022, tại đoạn đường NJ21, thuộc khu phố 3B, phường T, thị xã B, tỉnh B, lực lượng Công an phát hiện Đặng Ngọc A có hành vi cất giấu 0,1272 gam ma túy, loại Methamphetamine trong vành mũ đang đội trên đầu của Ngọc A nhằm mục đích sử dụng. Do đó, hành vi mà bị cáo Đặng Ngọc A đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây tác hại xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Việc mua, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội như: Trộm cắp, cướp giật, đặc biệt là nguy cơ lây nhiễm căn bệnh HIV/AIDS qua con đường tiêm chích ma túy. Loại ma túy mà bị cáo tàng trữ là Methamphetamine, đây là loại độc dược gây nghiện, có nhiều tác hại cho sức khỏe con người. Hiện nay, tệ nạn hút chích ma túy đang là gánh nặng cho gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước không ngừng tuyên truyền giáo dục và vận động toàn xã hội ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy thì vẫn còn những người vì mục đích tư lợi đã lén lút họat động tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, bất chấp pháp luật và hậu quả gây ra cho xã hội.

Về tình tiết định khung hình phạt: Tổng khối lượng Methamphetamine bị cáo Đặng Ngọc A đã có hành vi cất giấu trái phép là 0,1272 gam. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khung hình phạt nên chỉ xét xử ở khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo thuộc trường hợp được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị đối với bị cáo Đặng Ngọc A là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) Bì thư được niêm phong ghi số 239/PC09 có chữ ký của Đặng Ngọc A (người chứng kiến), chữ ký của Bùi Trung C (bên nhận mẫu), chữ ký của Nguyễn Hoàng N (bên trả mẫu) và hình dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh B, khối lượng mẫu vật niêm phong: M = 0,0365gam; loại Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số 239/KL-KTHS (MT) ngày 31/5/2022, Biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định ngày 25/5/2022): Đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ và lưu hành. Căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần phải tịch thu, tiêu hủy.

Đối với xe môtô biển số 61T8-7176: Xe do ông Phạm Bá T1 (sinh năm 1966; địa chỉ thường trú: Ấp T, xã A, thị xã B, tỉnh B) đứng tên đăng ký. Ngày 24/5/2022, ông Phạm Bá P (sinh năm 1988; địa chỉ thường trú: Ấp T, xã A, thị xã B, tỉnh B) là con của ông Tính sử dụng xe đi đến nhà bạn tại Nhà trọ N thuộc khu phố 3B, phường T, thị xã B, tỉnh B chơi thì Ngọc A mượn xe đi công việc. Ông P và ông T1 không biết Ngọc A sử dụng xe để đi sử dụng ma túy. Ngày 17/8/2022, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã B xử lý vật chứng giao trả xe cho ông T1. Việc giao trả này là phù hợp quy định pháp luật.

[5] Đối với đối tượng tên Tr (không rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi cho bị cáo Ngọc A ma tuý sử dụng: Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã B tiếp tục xác minh nhân thân, lai lịch để làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc A 01 (một) năm ba (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 25/5/2022.

3. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) Bì thư được niêm phong ghi số 239/PC09 có chữ ký của Đặng Ngọc A (người chứng kiến), chữ ký của Bùi Trung C (bên nhận mẫu), chữ ký của Nguyễn Hoàng N (bên trả mẫu) và hình dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh B, khối lượng mẫu vật niêm phong: M = 0,0365gam; loại Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số 239/KL-KTHS (MT) ngày 31/5/2022, Biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định ngày 25/5/2022).

(Vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30/8/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B giữa Công an thị xã B và Chi cục Thi hành án dân thị xã B) 4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đặng Ngọc A phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 145/2022/HS-ST

Số hiệu:145/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;