Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 142/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 142/2022/HS-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 81/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN VĂN C, sinh năm 1988 tại tỉnh Tiền Giang;

HKTT: Ấp N, xã G, huyện G, tỉnh Tiền Giang; Chỗ ở: Không có chỗ cố định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Đi biển; Cha: Không rõ tên (đã chết); Mẹ: Bùi Thị T, sinh năm 1966; Có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ hai; Chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt: Ngày 28/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an thành phố V (có mặt).

2. NGUYỄN CÔNG M, sinh năm 1991 tại tỉnh Bình Định;

HKTT: Thôn V, xã V1, huyện V2, tỉnh Bình Định; Chỗ ở: Không có chỗ cố định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; Nghề nghiệp: Đi biển; Cha: Nguyễn Công T, sinh năm 1954; Tên mẹ: Phan Thị S, sinh năm 1953; Có hai anh em, bị cáo là con thứ hai; Chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt: Ngày 28/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an thành phố V (có mặt).

3. NGUYỄN VĂN T, sinh năm 1996 tại tỉnh Sóc Trăng; HKTT: Ấp P, xã P1, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở: Không có chỗ cố định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Đi biển; Cha: Nguyễn Văn L (Đã mất); Tên mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1971; Có ba anh em, bị cáo là con út; Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt: Ngày 28/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an thành phố V (có mặt).

4. NGUYỄN HOÀI T2, sinh năm 1995 tại tỉnh An Giang; HKTT: Ấp T, xã P1, huyện P2, tỉnh An Giang; Chỗ ở: Không có chỗ cố định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Nghề nghiệp: Đi biển; Cha: Nguyễn Văn B, sinh năm 1957; Tên mẹ: Đoàn Ngọc  (Đã mất); Có hai anh em, bị cáo là con thứ hai; Chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt: Ngày 28/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an thành phố V (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 28/12/2021, tại phòng số 203 nhà nghỉ H số 288 đường N, phường 7, TP V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an TP V bắt quả tang Nguyễn Văn C, Nguyễn Công M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hoài T1 đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) đồng thời thu giữ vật chứng của vụ án.

Quá trình điều tra, C, M, Văn T và Hoài T1 khai nhận: Vào ngày 27/12/2021, M, Văn T và Hoài T1 nhậu cùng với nhau tại phòng số 203 nhà nghỉ H số 288 đường N, Phường 7, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Văn T rủ thêm C đến nhậu. Trong khi nhậu, cả nhóm rủ nhau mua ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy về sử dụng. C biết chỗ mua nên cả nhóm thống nhất để C đi mua sau đó chia tiền. C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 72C2 - 027.48 đến khu vực B, phường N, thành phố V gặp một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) mua 01 gói ma túy đá với giá 1.000.000 đồng và 01 bộ sử dụng ma túy với giá 70.000 đồng và C đưa thêm thanh niên bán ma túy 30.000 đồng. Sau khi có ma túy, C cất giấu trong người đến phòng 203 nhà nghỉ H gặp Văn T, M và Hoài T1. Tại đây, M, Văn T, Hoài T1 góp lại đưa lại cho đủ C 1.000.000 đồng (C góp 100.000 đồng). Riêng tiền thuê nhà nghỉ, cả nhóm thống nhất sẽ góp tiền trả sau khi sử dụng ma túy xong. Khi C, M, Văn T, Hoài T1 đang sử dụng ma túy thì bị Lực lượng chức năng bắt quả tang như trên.

Tại Bản kết luận giám định số 51/KLGĐ-PC09-MT ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận: 01 (Một) gói nylon hàn kín được niêm phong trong một phong bì màu trắng có hình con dấu của Công an phường B- Công an thành phố V, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu và cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Vũ Đức Trí, Nguyễn Như Thiệp, Nguyễn Hoài T1, Nguyễn Văn T, Đỗ Vũ Hải, Nguyễn Công M, gửi đến giám định có khối lượng 0,4005 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

- Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

+ 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất thể màu trắng, qua giám định có khối lượng 0,4005 gam, là ma túy, loại Methamphetamine;

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, số Imei1 là 864738049846991, số Imei2 là 864738049846983 thu giữ của Nguyễn Văn T;

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen, số Imei là 865545055726598 thu giữ của Nguyễn Văn C;

+ 01 xe mô tô biển số 72C2-027.48, số khung: 5813GY556778, số máy: JF66E0482768;

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Xử lý vật chứng:

+ Đối với xe mô tô hiệu Vision màu xám, biển số 72C2-027.48, số khung: 5813GY556778, số máy: JF66E0482768, qua xác minh thuộc quyền sở hữu của bà Trần Thị Kim T2, sinh 1982; HKTT và Chỗ ở: 70 đường N, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Bà T2 không biết C sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội nên C quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã ra quyết định xử lý vật chứng trả chiếc xe cho bà T2.

+ Số vật chứng và các tài sản còn lại, C quan Cảnh sát điều tra chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V quản lý, chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 96/CT-VKS ngày 14/4/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Công M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hoài T1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Công M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hoài T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời đề nghị:

* Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt mỗi bị cáo mức án từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật của vụ án đã qua giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Trả lại điện thoại đã thu của các bị cáo, do không liên quan đến hành vi, sự việc phạm tội gồm:

+ Nguyễn Văn T: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, số Imei1 là 864738049846991, số Imei2 là 864738049846983;

+ Nguyễn Văn C: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen, số Imei là 865545055726598.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát. Không có ý tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên C sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình tiến hành tố tụng đã thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Căn cứ lời khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai tại cơ quan điều tra, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 28/12/2021, tại phòng số 203 nhà nghỉ H số 288 đường N, phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an thành phố V bắt quả tang Nguyễn Văn C, Nguyễn Công M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hoài T1 đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Theo Kết luận giám định số 51/KLGĐ-PC09-MT ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận: Ma túy các bị cáo tàng trữ có khối lượng 0,4005 gam, loại Methamphetamine. Các bị cáo khai nhận đã chung tiền tổng cộng 1.000.000 đồng để mua ma túy và dụng cụ sử dụng chung thì bị bắt quả tang.

Với hành vi đã thực hiện này của các bị cáo, đủ yếu tố cấu thành “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội các bị cáo gây ra là nguy hiểm, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Vì việc sử dụng ma túy ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần, thể chất của người sử dụng. Ngoài làm suy kiệt sức khỏe, còn gây thiệt hại về tài chính. Cũng là nguyên nhân, mần móng làm phát sinh các loại tội phạm, tệ nạn khác; ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Nên mọi hành vi vi phạm liên quan đến ma túy đều bị pháp luật xử lý rất nghiêm khắc. Các bị cáo đều trong độ tuổi lao động tốt nhất nhưng không đủ bản lĩnh, nhận thức sâu sắc để tránh xa, mà đã sử dụng ma túy và sa vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi, tính chất, nhân thân các bị cáo nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với các bị cáo, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo đều có hoàn cảnh rất khó khăn, tự lập sớm. Tại phiên tòa, tất cả các bị cáo đều khai nhận, 04 bị cáo đi chung tàu đánh bắt hải sản xa bờ cùng với nhau. Trong một năm, chỉ vào bờ 07 ngày là để mua bổ sung đồ đạc cho chuyến biển tiếp theo, cũng không thể gặp người thân vì tàu cập vào vùng biển nào, các bị cáo kiếm phòng trọ ở địa phương đó để lưu trú 07 ngày. Đây cũng chính là thời điểm các bị cáo có mặt tại thành phố V và phạm tội vào ngày 28/12/2021. Điều kiện làm việc và hạn chế về trình độ văn hóa dẫn đến các bị cáo có hạn chế nhất định về hiểu biết xã hội, nhận thức và hiểu biết pháp luật. Nên Hội đồng xét xử cân nhắc áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là thỏa đáng.

[5] Về xử lý vật chứng: Đề xuất xử lý vật chứng của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận; Cụ thể xử lý như sau:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật của vụ án đã qua giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Trả lại điện thoại đã thu của các bị cáo, do không liên quan đến hành vi, sự việc phạm tội gồm:

+ Nguyễn Văn T: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, số Imei1 là 864738049846991, số Imei2 là 864738049846983.

+ Nguyễn Văn C: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen, số Imei là 865545055726598.

+ 01 Xe môtô hiệu Vision màu xám, biển số 72C2-027.48, số khung: 5813GY556778, số máy: JF66E0482768, C quan điều tra đã trả cho bà Trần Thị Kim T2, không ai có ý kiến yêu cầu gì nên không xem xét xử lý thêm.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Công M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hoài T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, - Xử phạt Nguyễn Văn C: 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2021.

- Xử phạt Nguyễn Công M: 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2021.

- Xử phạt Nguyễn Văn T: 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2021.

- Xử phạt Nguyễn Hoài T1: 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 gói ma túy đã qua giám định chứa trong phong bì niêm phong số 51/KLGĐ-PC09-MT ngày 04/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Trả lại cho bị cáo:

+ Nguyễn Văn T: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, số Imei1 là 864738049846991, số Imei2 là 864738049846983;

+ Nguyễn Văn C: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen, số Imei là 865545055726598.

Thực hiện xử lý vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 127/BB.THA ngày 19/4/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V.

3. Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 142/2022/HS-ST

Số hiệu:142/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;