Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 142/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 142/2020/HS-ST NGÀY 01/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 187/2020/HSST ngày 26 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2020/QĐXXST-HS ngày 9/6/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2020/QĐXXST-HS ngày 22/6/2020đối với bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Văn C; Giới tính: Nam Sinh ngày: 02/9/1990; Nơi sinh: tỉnh Hà Nam Trú tại: Thôn 1 ĐT, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Trình độ học vấn: 9/12 Nghề nghiệp: Lao động tự do Họ tên cha: Nguyễn Văn P, sinh năm: 1960 Họ tên mẹ: Trần Thị L, sinh năm: 1967 Họ và tên vợ: Đinh Thị Hoa M, sinh năm: 1992 Có 3 con: Lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2019 Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt * Người làm chứng:

- Ông Phạm Đức T, sinh năm 1995 Trú tại: Xóm 6, xã V, huyện L, tỉnh Hà Nam.Vắng mặt - Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 Trú tại: Thôn 1 Đ, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt - Ông Vũ Văn V, sinh năm 1993 Trú tại: Xóm 6, xã V, huyện L, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt - Bà Hồng Ngọc T, sinh năm 2001 HKTT: Tạ An Khương Đầm Rơi, Cà Mau Nơi tạm trú: Số 03 S, phường V, thành phố Nha Trang.

Vắng mặt - Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 2000 HKTT: Khu phố 3, phường Đ, thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận Nơi tạm trú: 76 L, phường V, thành phố Nha Trang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 23/11/2019, tổ công tác của Phòng cảnh sát quản lý Hành chính về trật tự xã hội - Công an tỉnh Khánh Hòa tiến hành kiểm tra quán Karaoke Avatar, địa chỉ: số 224 đường 2/4, phường Vĩnh Hải, thành phố Nha Trang. Khi kiểm tra tại phòng số 301, trong phòng có 06 người gồm: Nguyễn Văn C, Phạm Đức T, Nguyễn Văn T, Vũ Văn V, Hồng Ngọc Th, Nguyễn Thị Ngọc Th. Tổ công tác phát hiện ở trên bàn có 01 đĩa sứ màu trắng, trên đĩa có một ít chất bột nén màu trắng (được niêm phong, kí hiệu là A); 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền có mệnh giá 10.000 đồng; 01 thẻ LOTTE; phát hiện dưới sàn nhà trong phòng 01 (bịch) nylong màu trắng, có khóa hằn miệng, kích thước khoảng (04x08)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng (được niêm phong, kí hiệu là B). Tổ công tác tiến hành niêm phong tang vật, mời tất cả các đối tượng về trụ sở công an phường Vĩnh Hải để làm việc.

Tại bản kết luận giám định số 675/GĐTP/2019 ngày 29/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận:

- Mẫu kí hiệu A gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3502gam, là (loại) Katamine.

- Mẫu kí hiệu B gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,5430gam, là (loại) Katamine.

Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKS-NT ngày 20/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù; về vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám, sử dụng số thuê bao 0972.587.5xx. Trả lại Phạm Đức T 01 điện thoại di động hiệu SamSung màu đen, sử dụng số thuê bao 08899799xx; trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn C số tiền 3.750.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy: 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, 01 thẻ LOTTE.. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng và người chứng kiến. Xét thấy việc vắng mặt của đương sự không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố là có tính khách quan và hợp pháp.

[3]. Về nội dung: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn C khai nhận:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 22/11/2019, Nguyễn Văn C, Phạm Đức T, Nguyễn Văn T và Vũ Văn V rủ nhau đến quán Karaoke Avatar, địa chỉ: số 224 đường 2/4, phường Vĩnh Hải, thành phố Nha Trang để hát. Cả nhóm được nhân viên đưa vào phòng số 301 và gọi thêm 02 (hai) tiếp viên nữ (Hồng Ngọc Th và Nguyễn Thị Ngọc Th) vào phục vụ. Lúc này, cả nhóm nảy sinh ý định sử dụng ma túy nên C đã liên lạc với một nam thanh niên (không rõ lai lịch) mua “1/2 hộp 5” ma túy “khay” và “8” viên ma túy “thuốc lắc” với giá 6.250.000 đồng để cả nhóm cùng sử dụng. Một lúc sau nam thanh niên (không rõ lai lịch) đem ma túy đến phòng 301 rồi để lên bàn, C kiểm tra ma túy rồi đưa tiền cho nam thanh niên. Sau đó, cả nhóm sử dụng hết 8 viên ma túy “thuốc lắc” và một ít ma túy “khay”. Đến khoảng 00 giờ 30 phút thì lực lượng Công an đến kiểm tra thu giữ số ma túy như đã nêu trên.

Nguyễn Văn C khẳng định, toàn bộ số tiền mua ma túy là của C bỏ ra mua “đãi” cả nhóm. C không rủ rê, bàn bạc trước với bất kỳ ai trong nhóm về việc mua ma túy để cùng sử dụng; không ai trong nhóm biết việc C giao dịch mua ma túy, không ai góp tiền để cùng mua ma túy với C.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung Biên bản kiểm tra, Biên bản sự việc, với bản Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Việc bị cáo tàng trữ trái phép 1,8932 gam (một phẩy tám chín ba hai gam) ma túy Ketamine với mục đích để sử dụng, không nhằm mục đích bán lại kiếm lời đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của nhà nước, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4]. Tuy nhiên, xét bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân là bộ đội xuất ngũ, ông nội bị cáo là người có công với cách mạng nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[5]. Đối với Phạm Đức T, Nguyễn Văn T, Vũ Văn V, Hồng Ngọc Th, Nguyễn Thị Ngọc Th: Công an thành phố Nha Trang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

[6]. Quá trình giải quyết vụ án, để làm rõ hành vi Phạm Đức T, Nguyễn Văn T, Vũ Văn V, Hồng Ngọc Th, Nguyễn Thị Ngọc Th có cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với vai trò đồng phạm với Nguyễn Văn C hay không? Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã có Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 30/2020/HSST-QĐ ngày 23/4/2020 yêu cầu điều tra làm rõ nhưng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Căn cứ Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử theo nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử kiến nghị cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ hành vi của Phạm Đức T, Nguyễn Văn T, Vũ Văn V, Nguyễn Thị Ngọc Th, Hồng Ngọc Th. Nếu có đủ cơ sở thì xem xét xử lý trong vụ án hình sự khác.

[7]. Đối với đối tượng tên Đô, người bán ma túy cho bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo vẫn khẳng định, khi mua ma túy có liên lạc bằng điện thoại với đối tượng Đô. Tuy nhiên, bị cáo đã không nhớ số điện thoại, không biết họ tên đầy đủ, nơi cư trú hay bất cứ thông tin gì về đối tượng này.

Về số điện thoại mà đối tượng tên Đô sử dụng khi bị cáo liên hệ mua ma túy mà bị cáo khai trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang đã có văn bản gửi Tập đoàn viễn thông Quân đội, yêu cầu cung cấp tên chủ số thuê bao, tình trạng hoạt động và chi tiết các cuộc gọi đến và đi trong khoản thời gian từ ngày 22/11/2019 đến ngày 23/11/2019 đối với số thuê bao 0388.596.2xx..... Tại Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 30/2020/HSST-QĐ ngày 23/4/2020, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang cũng đã yêu cầu Viện kiểm sát xác minh làm rõ, nhưng đến nay vẫn chưa xác định được. Do đó, Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ đối với đối tượng tên Đô, người đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Văn C theo như bị cáo khai. Nếu có đủ cơ sở thì xử lý trong một vụ án hình sự khác.

[6]. Về vật chứng vụ án:

- Đối với số tiền 3.750.000 đồng: Xét số tiền này là tài sản của bị cáo nên tuyên trả lại cho bị cáo - 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng; 01 thẻ LOTTE: Là công cụ để sử dụng ma túy và không có giá trị sử dụng nên tuyên tịch thu tiêu hủy;

- 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng: Là công cụ để sử dụng ma túy nên tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám, sử dụng số thuê bao 0972.587.5xx: Là công cụ, phương tiện phạm tội nên tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước - 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, sử dụng số thuê bao 08899799xx là tài sản riêng của Phạm Đức T, không phải công cụ, phương tiện phạm tội trong vụ án này nên tuyên trả lai cho anh Thành.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH 

- Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 01 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám, sử dụng số thuê bao 0972.587.5xx;

+ Trả lại cho anh Phạm Đức T 01 điện thoại di động hiệu SamSung màu đen, sử dụng số thuê bao 08899799xx + Tịch thu tiêu hủy: 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, 01 thẻ LOTTE Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/4/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Nha Trang.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn C số tiền 3.750.000 đồng; theo Giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước số 0816911 ngày 24 tháng 2 năm 2020 của Kho bạc Nhà nước Khánh Hòa.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 142/2020/HS-ST

Số hiệu:142/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;