Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐL, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2022/TLST-HS, ngày 15 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:

- Nguyễn Thế T, sinh năm 1999, tại tỉnh Bình Thuận.

Nơi cư trú: Thôn 6, xã NC, huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế V và bà Lê Thị A; Vợ, con: chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 17/04/2020, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã NC, huyện ĐL ra quyết định số 03/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn thời hạn 03 tháng, chấp hành xong ngày 18/7/2020.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 24/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện ĐL. Có mặt.

Người làm chứng:

- Nguyễn Thế S, sinh năm 1992; Nguyễn Thế V, sinh năm 1967; Nguyễn Thị A, sinh năm 1970; Cùng nơi cư trú: Thôn 6, xã NC, huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận.

Đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 27/08/2021, tại nhà ông Nguyễn Thế V, sinh năm 1967, thuộc thôn 6, xã NC, huyện ĐL. Ông V và con trai mình là Nguyễn Thế S, sinh năm 1992 phát hiện Nguyễn Thế T, sinh năm 1999 đang sử dụng trái phép chất ma túy trong phòng ngủ của T. Thấy vậy, ông V và S giữ T lại và kiểm tra trong người T thì phát hiện trong túi quần trước, bên trái có một bịch nylon được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo, bên trong chứa tinh thể màu trắng, kích thước (4,5 x 3,5) cm.

Đến 07 giờ 50 phút ngày 28/08/2021, anh S trình báo nội dung vụ việc đến Công an xã NC để giải quyết. Qua làm việc, Nguyễn Thế T khai nhận 01 bịch nylon được hàn kín 03 đầu, một đầu có khóa kéo viền màu trắng, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, kích thước (4,5 x 3,5) cm mà cơ quan công an thu giữ là ma túy mà T đã mua vào ngày 26/08/2021. Cơ quan công an tiến hành lập biên bản ghi nhận sự việc, biên bản niêm phong đồ vật tài liệu và đưa Nguyễn Thế T về trụ sở làm việc.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thế T đã khai nhận: Vào tối ngày 26/08/2021, Nguyễn Thế T điều khiển xe đến gần trường trung học phổ thông Hùng Vương thuộc thị trấn Đức Tài, huyện ĐL mua ma túy của một người T niên tên Đông (không rõ nhân thân, lại lịch) với giá 500.000 đồng rồi đem về nhà mình tại thôn 6, xã NC, huyện ĐL cất giấu để sử dụng. Tối ngày 27/08/2021, T lấy ma túy ra sử dụng thì bị anh trai mình là Nguyễn Thế S sinh năm 1992 phát hiện, chửi bới và đập bể dụng cụ sử dụng ma túy. S và cha ruột của mình là ông Nguyễn Thế V sinh năm 1967 giữ T lại để tránh tình trạng T lên cơn nghiện đập phá đồ đạc. Sáng ngày 28/08/2021, Nguyễn Thế S trình báo Công an xã NC về việc Nguyễn Thế T tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy và giao nộp tang vật cho cơ quan công an Tại kết luận giám định số: 1070/KLGĐ-PC09 ngày 01/09/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Phong bì được niêm phong còn nguyên vẹn có các chữ ký ghi tên Phạm Văn Thông, Nguyễn Thế Vinh, Nguyễn Thế T, Đặng Hoàng Nhượng và hình dấu tròn màu đỏ của Công an xã Nam Chinh. Trong phong bì có: 01 bịch nylon được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo viền màu trắng, kích thước (4,5 x 3,5) cm, bên trong bịch nylon chứa chất rắn màu trắng (ký hiệu M). Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,4429 gam; là Methamphetamine.

Ngày 09/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐL ra Quyết định trưng cầu giám định số 181/QĐ-CSĐT đối với Nguyễn Thế T. Tại kết luận giám định số 658/KL-VPYTW, ngày 27/12/2021 của Viện pháp y tâm thần trung ương Biên Hòa thuộc Bộ y tế kết luận:

- Về y học:

+ Trước và trong khi gây án: Đương sự không có bệnh tâm thần. Sau khi gây án: Đương sự bị bệnh rối loạn phân ly trại giam (hội chứng Ganser) (F44.80 - ICD.10).

+ Hiện nay: Đương sự không có bệnh tâm thần.

- Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Tại thời điểm gây án và hiện nay: Đương sự đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Vật chứng vụ án: 01 bịch nylon được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo viền màu trắng, kích thước (4,5 x 3,5) cm và 0,3827 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong mẫu sau giám định số 1070 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Tại Cáo trạng số 10/CT-VKSĐL-HS ngày 14/02/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐL truy tố Nguyễn Thế T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Thế T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐL đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng.

Trong phần tranh luận:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐL nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các nguyên nhân, điều kiện phát S tội phạm, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ hình phạt, nhân thân của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về điều luật: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 18 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 bịch nylon được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo viền màu trắng, kích thước (4,5 x 3,5) cm và 0,3827 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong mẫu sau giám định số 1070 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Ngoài ra không có tranh luận gì. Lời nói sau cùng bị cáo biết lỗi của mình, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và tội danh:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thế T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản ghi nhận sự việc, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Nguyễn Thế T là đối tượng nghiện ma túy, vào tối ngày 26/08/2021, T điều khiển xe đến gần trường trung học phổ thông Hùng Vương thuộc thị trấn Đức Tài, huyện ĐL mua ma túy của một người T niên tên Đông (không rõ nhân thân, lại lịch) với giá 500.000 đồng rồi đem về nhà mình tại thôn 6, xã NC, huyện ĐL cất giấu để sử dụng. Tối ngày 27/08/2021, T lấy ma túy ra sử dụng thì bị anh trai mình là Nguyễn Thế S phát hiện, chửi bới, đập bể dụng cụ sử dụng ma túy và thu giữ 01 bịch nylon được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo viền màu trắng, kích thước (4,5 x 3,5) cm, bên trong bịch nylon chứa chất rắn màu trắng có khối lượng 0,4429 gam; là Methamphetamine.

Tại kết luận giám định số 658/KL-VPYTW, ngày 27/12/2021 của Viện pháp y tâm thần trung ương Biên Hòa thuộc Bộ y tế kết luận:

- Về y học:

+ Trước và trong khi gây án: Đương sự không có bệnh tâm thần. Sau khi gây án: Đương sự bị bệnh rối loạn phân ly trại giam (hội chứng Ganser) (F44.80 - ICD.10).

+ Hiện nay: Đương sự không có bệnh tâm thần - Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Tại thời điểm gây án và hiện nay: Đương sự đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Như vậy, Phạm Thế T là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật bảo vệ. Do đó, hành vi cất giấu 0,4429 gam ma túy loại Methamphetamine của bị cáo nhằm mục đích sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Vì vậy, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐL truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo:

Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây tác hại lớn đối với sức khỏe và nhân cách của con người, làm thiệt hại kinh tế của gia đình cũng như xã hội và là một trong những nguyên nhân nảy S của các loại tội phạm khác; gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, đã từng bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã NC huyện ĐL ra Quyết định áp dụng biện giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng tại Quyết định số 03/QĐ-UBND, ngày 17/04/2020. Chấp hành xong ngày 18/7/2020, tại Quyết định số 03/GCN-UBND. Tuy nhiên, sau khi chấp hành bị cáo vẫn tiếp tục sử dụng ma túy. Điều này chứng tỏ bị cáo là người xem thường pháp luật, không có ý thức từ bỏ ma túy. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo phạm tội lần đầu nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Về hình phạt chính: Từ những phân tích nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn như đề nghị của Đại diện viện kiểm sát đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo nhằm để răn đe giáo dục bị cáo thành người biết tôn trọng pháp luật và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về biện pháp tư pháp:

Đối với 01 bịch nylon được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo viền màu trắng, kích thước (4,5 x 3,5) cm và 0,3827 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong mẫu sau giám định số 1070 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Đây là chất cấm tàng trữ, cần tịch thu, tiêu hủy cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sư;

[6] Đối với người tên Đông tại thị trấn Đức Tài, huyện ĐL là người bán ma túy cho bị cáo hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[7] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong điều tra, truy tố:

Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Thế T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện ĐL, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐL được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận, nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.

1. Tuyên bố: Nguyễn Thế T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Nguyễn Thế T 1 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 24/9/2021.

2. Về biện pháp tư pháp:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 bịch nylon được hàn kín ba đầu, một đầu có khóa kéo viền màu trắng, kích thước (4,5 x 3,5) cm và 0,3827 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong mẫu sau giám định số 1070 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

(Hiện các vật chứng trên đang lưu giữ tại Chi cục thi hành hành án Dân sự huyện ĐL theo biên bảo giao nhận vật chứng ngày 15/02/2022).

3. Về án phí: Nguyễn Thế T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (30/3/2022) để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;