TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 141/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 115/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2021; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 138/2021/HSST-QĐ ngày 16 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
* Họ và tên: Phạm Văn T (tên gọi khác: không), sinh ngày 05 tháng 01 năm 1990; tại thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: phường B, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Khu 6, phường H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn Đ, đã chết và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1961; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: chưa; Tiền sự: Ngày 03/6/2021, Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, hiện chưa thi hành; Nhân thân: Ngày 25/5/2009, Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xử phạt 09 tháng tù, về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 20/6/2021, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái. Có mặt.
* Người làm chứng:
- Nguyễn Khánh M, sinh năm 1990, nơi cư trú: phường B, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Vũ Ngọc T, sinh năm 1976. Địa chỉ: phường B, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Bùi Văn V, sinh năm 1994, địa chỉ: khu T, phường T, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Nghiêm Mạnh C, sinh năm 1975, nơi cư trú: đường N, khu H, phường N, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Đặng Văn Q, sinh năm 1997, nơi cư trú: phường K, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Lê Thị Thu H, sinh năm 1998, nơi cư trú: đường N, khu H, phường N, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Phạm Ngọc K, sinh năm 1972, nơi cư trú: phường K, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
* Người chứng kiến: Phạm Đình H, sinh năm 1960, nơi cư trú: Số nhà 1 đường N, khu H, phường N, thành phố M. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 22 giờ ngày 20/6/2021, Tổ công tác của Công an phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái kiểm tra hành chính phòng trọ của anh Nghiêm Mạnh C ở số 3, thuộc khu H, phường N, thành phố M, đã phát hiện bắt quả tang Phạm Văn T (đang có mặt tại phòng trọ) có hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý. Vật chứng thu giữ: trong túi quần phía trước, bên phải của T 01 (một) túi nilon kích thước (2x2,5)cm chứa chất tinh thể màu trắng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia gắn sim số 0935001000. Ngoài ra, thu giữ tại gian phòng khách nhà anh C 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.
Tại Bản kết luận giám định số 1183/KLGĐ ngày 27/6/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Văn T gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,274 gam (không phẩy hai bẩy bốn gam).
Quá trình điều tra, Phạm Văn T khai: Chiều ngày 20/6/2021, T điện thoại cho Nguyễn Khánh M (sinh năm 1990, trú tại: khu 4, phường B, thành phố M) hỏi mua ma túy “đá” để sử dụng. M đồng ý bán và hẹn đến khu vực bờ đê ở khu 4, phường B để giao dịch. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T đi đến điểm hẹn gặp và mua của M 01 túi ma tuý với giá 300.000đồng. Sau khi mua, T cất túi ma túy vào trong túi quần bên phải rồi đi về nhà. Khoảng 21 giờ 50 phút cùng ngày, T đến phòng trọ của anh Nghiêm Mạnh C chơi, trong lúc ngồi chơi, thì Công an phường N đến kiểm tra, bắt giữ. T không biết bộ dụng cụ sử dụng ma túy thu giữ tại nhà anh C là của ai.
Tại bản Cáo trạng số: 108/CT-VKS-MC, ngày 10 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố Phạm Văn T, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự;
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T khai nhận đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nêu trên.
* Phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Phạm Văn T từ 18 (mười tám) đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt: ngày 20/6/2021.
-Áp dụng Điều 117 Pháp luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi bổ sung năm 2017: Miễn chấp hành 18 (mười tám) tháng cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh (địa chỉ: Thôn Đồng Rùa, xã Vũ Oai, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh) theo Quyết định số 12/QĐ-TA ngày 03/6/ 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Móng cái, tỉnh Quảng Ninh đối với Phạm Văn T.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy: 0,22 (không phẩy hai mươi hai) gam chất tinh thể màu trắng, là ma túy loại Methamphetamine. Đối tượng giám định hoàn lại trong niêm phong số 1183/KLGĐ ngày 27/6/2021; 01 (một) bộ bình dụng cụ sử dụng ma túy "đá".
+ Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Mobifone, đăng ký số thuê bao 0935.001.000 Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về những chứng cứ xác định bị cáo có tội, về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:
Xét lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 22 giờ ngày 20/6/2021, tại khu H, phường N, thành phố M, Phạm Văn T có hành vi cất giấu trái phép 0,274 (không phẩy hai bẩy bốn gam) Methamphetamine để sử dụng, thì bị phát hiện bắt quả tang.
Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm phạm đến chế độ của Nhà nước về quản lý các chất ma túy.
Do đó, hành vi như nêu trên của bị cáo Phạm Văn T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Điều 249 bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) … Methamphetamine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” ….
Bị cáo nhận thức rõ về tác hại của ma túy và quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy,bản thân bị cáo năm 2009 đã bị xử lý trước pháp luật ,không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà lại đi vào con đường nghiện hút ma túy, điều này cho thấy thiếu ý thức chấp hành pháp luật, đã bất chấp thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo làm cho tệ nạn mua bán trái phép chất ma túy gia tăng, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, thấy cần thiết phải đưa bị cáo ra xét xử công khai, xử lý nghiêm, quyết định mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, mới có tác dụng giáo dục và phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Đối với Phạm Văn T, ngày 03 tháng 6 năm 2021 Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Phạm Văn T, thời hạn chấp hành tại cơ sở cai nghiện bắt buộc tỉnh Quảng Ninh là 18 (mười tám) tháng, trong thời gian chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện, bị cáo lại vi phạm pháp luật, cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án hình sự. Qua làm việc tại cơ sở cai nghiện ma túy Quảng Ninh, cơ sở cai nghiện cho biết chưa nhận được quyết định số 12/2021/QĐ-TA, ngày 03/6/2021 và hồ sơ, tài liệu của người phải chấp hành quyết định và tại phiên tòa bị cáo chưa nhận được quyết định đó. Căn cứ vào Điều 117 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét thấy cần miễn chấp hành biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện đối với Phạm Văn T.
[5] Về hình phạt bổ sung: tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền. Tuy nhiên, xét bị cáo không có việc làm và thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
+ Tịch thu tiêu hủy: 0,22 (không phẩy hai mươi hai) gam chất tinh thể màu trắng, là ma túy loại Methamphetamine. Đối tượng giám định hoàn lại trong niêm phong số 1183/KLGĐ ngày 27/6/2021 là vật nhà nước cấm. Và 01 (một) bộ bình dụng cụ sử dụng ma túy "đá" là vật chứng không có giá trị sử dụng. Do đó cần tịch thu tiêu hủy.
+ Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Mobifone, đăng ký số thuê bao 0935001000. Chiếc điện thoại bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.
[7] Về lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát: Xét những chứng cứ mà Kiểm sát viên dùng để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đã được cơ quan điều tra thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng Hình sự quy định; Tại phiên tòa bị cáo cũng đã thừa nhận thực hiện hành vi như bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Nên lời buộc tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Phạm Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[10] Liên quan trong vụ án có đối tượng tên Nguyễn Khánh M không thừa nhận việc đã bán ma túy cho T, tài liệu điều tra chưa đủ cơ sở để khởi tố đối với M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Đối với anh Nghiêm Mạnh C không biết và tham gia cùng T tàng trữ trái phép chất ma túy, anh C cũng khai không biết bộ dụng cụ để sử dụng ma túy là của ai mang đến phong trọ của anh nên không đề cập xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo: Phạm Văn T (tên gọi khác: Không) Phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự
Xử phạt: Phạm Văn T 18 ( mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt: ngày 20/6/2021.
-Áp dụng Điều 117 Pháp luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi bổ sung năm 2017: Miễn chấp hành 18 (mười tám) tháng cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh (địa chỉ: Thôn Đồng Rùa, xã Vũ Oai, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh) theo Quyết định số 12/QĐ-TA ngày 03/6/ 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Móng cái, tỉnh Quảng Ninh đối với Phạm Văn T.
2. Về xử lý vật chứng : áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy: 0,22 (không phẩy hai mươi hai) gam chất tinh thể màu trắng, là ma túy loại Methamphetamine. Đối tượng giám định hoàn lại trong niêm phong số 1183/KLGĐ ngày 27/6/2021; 01 (một) bộ bình dụng cụ sử dụng ma túy "đá".
+ Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Mobifone, đăng ký số thuê bao 0935001000.
(Vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 127/2021/THA ngày 13 tháng 9 năm 2021, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc Phạm Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 1 Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 141/2021/HS-ST
Số hiệu: | 141/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về