TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THẠNH, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2024/TLST- HS ngày 12 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
Tôn Thị Hồng N, sinh năm: 2002; Nơi sinh: Chợ M-An Giang; Nơi thường trú: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tôn Tấn Đ-1980 (sống) và bà Trần Thị T, năm sinh không xác định; A, chị, em ruột: Có 02 (lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2004); Chồng: Nguyễn Văn Á, không đăng ký kết hôn, không rõ năm sinh, địa chỉ (chết năm 2021); Con: Tôn Tấn L-sinh ngày 28/8/2022; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2023 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
- Bà Phạm Thị Minh C-1972-vắng mặt.
- Ông Trần Ngọc C1-1972-vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện V, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19 giờ ngày 18/12/2023, N thuê xe honda ôm đi từ thành phố L, tỉnh An Giang đến đầu Kênh A thuộc ấp V, xã V, huyện V thì xuống xe đi bộ đến nhà Phạm Thị Minh C để mua ma túy, do không có C ở nhà nên N gặp Trần Ngọc C1 (chồng của C) hỏi mua 200.000 đồng ma túy loại Heroin thì C1 đồng ý, N đưa tiền và nhận ma túy. Sau đó, N đi bộ ra quán võng cặp mé sông C thuộc ấp V, xã V nằm nghỉ, tại đây N lấy ra một ít ma túy pha vào ống kim tiêm và chích vào cơ thể, phần ma túy còn lại N chia làm hai gói quấn giấy bạc cất giấu dưới nền đất gần chỗ nằm.
Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, có một nam thanh niên khoảng 30 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ) đi đến nhờ N mua dùm 100.000 đồng ma túy đá thì N đồng ý, N đi bộ vào Kênh H thuộc ấp V, xã V gặp một người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ) mua 100.000 đồng ma túy đá rồi đem ra đầu Kênh 8, tại đây nam thanh niên nhận gói ma túy, sau đó lấy ra một ít bỏ vào gói nilon đưa cho N để trả công. N cầm gói ma túy đem lại vị trí gần võng cất chung với 02 gói ma túy trước đó. Đến khoảng 02 giờ sáng ngày 19/12/2023 khi N đang nằm ngủ thì bị lực lượng Công an tiến hành kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.
Ngoài ra, N còn khai nhận đã mua ma túy của C được 04 lần, mỗi lần từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, mua của C1 được 01 lần giá 200.000 đồng, mua ma túy của người phụ nữ lạ mặt khoảng 04 lần, mỗi lần mua 100.000 đồng.
Căn cứ vào Kết luận giám định số 407/KL-KTHS, ngày 27/12/2023 của Phòng K - Công an thành phố C, kết luận: Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine ( H), khối lượng: 0,2028 gam; Mẫu M2 gửi giảm định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0103 gam.
Đối với Phạm Thị Minh C và Trần Ngọc C1 cùng trú tại ấp V, xã V, kết quả điều tra C thừa nhận đã bán ma túy cho N 04 lần, C1 thừa nhận bán ma túy cho N 01 lần, ngoài ra còn bán ma túy cho nhiều người nghiện khác. Ngày 06/02/2024 Cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, lệnh tạm giam đối với C và C1 tiếp tục điều tra về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” trong một vụ án khác.
Đối với người phụ nữ N đã mua ma túy ở Kênh H và nam thanh niên nhờ N mua ma túy dùm do không rõ họ tên địa chỉ nên không tiếp xúc làm việc được, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, khi có căn cứ sẽ xử lý theo quy định pháp luật.
Tại cáo trạng số 18/CT-VKSVT ngày 11/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh truy tố bị cáo Tôn Thị Hồng N về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo thống nhất với nội dung cáo trạng và thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, không bổ sung gì thêm, đồng thời đề nghị:
Tuyên bố: Bị cáo Tôn Thị Hồng N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Tôn Thị Hồng N từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.
Hình phạt bổ sung: Miễn cho bị cáo do không có nghề nghiệp ổn định.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 01 gói mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng M1: 0,1718 gam được niêm phong số 407/KL-KTHS ngày 27/12/2023 có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng K, Công an thành phố C và chữ ký các bộ niêm phong Nguyễn Đoàn Trường A.
- Tịch thu tiêu hủy 02 ống bom kim tiêm đã qua sử dụng.
* Về vấn đề khác:
Đối với Phạm Thị Minh C và Trần Ngọc C1 cùng trú tại ấp V, xã V, kết quả điều tra C thừa nhận đã bán ma túy cho N 04 lần, C1 thừa nhận bán ma túy cho bị cáo 01 lần, ngoài ra còn bán ma túy cho nhiều người nghiện khác. Ngày 06/02/2024 Cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, lệnh tạm giam đối với C và C1 tiếp tục điều tra về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” trong một vụ án khác.
Đối với người phụ nữ mà bị cáo đã mua ma túy ở Kênh H và nam thanh niên nhờ N mua ma túy dùm do không rõ họ tên địa chỉ nên không tiếp xúc làm việc được, kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợ p pháp.
Đối với người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng họ đã có lời khai trong quá trình điều tra, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh: Trong quá trình điều tra và qua thẩm tra, đối chất tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người làm chứng. Như vậy, có cơ sở xác định vào khoảng 19 giờ ngày 18/12/2023, bị cáo gặp Trần Ngọc C1 hỏi mua ma túy loại Heroin, giá 200.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, bị cáo đến quán võng cặp mé sông C thuộc ấp V, xã V nằm nghỉ, tại đây bị cáo lấy ra một ít ma túy pha vào ống kim tiêm và chích vào cơ thể, phần ma túy còn lại bị cáo chia làm hai gói quấn giấy bạc cất giấu dưới nền đất gần chỗ nằm. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, bị cáo đến Kênh H, ấp V, xã V mua dùm nam thanh niên lạ mặt gói ma tú y đá với giá 100.000 đồng, nam thanh niên lấy một ít ma túy bỏ vào gói nilon đưa cho bị cáo để trả công, bị cáo cầm gói ma túy đem lại vị trí gần võng cất chung với 02 gói ma túy trước đó. Sau đó, bị công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Căn cứ vào Kết luận giám định số 407/KL-KTHS, ngày 27/12/2023 của Phòng K - Công an thành phố C, kết luận: Mẫu M1 gửi giảm định là ma túy, loại Heroine (H), khối lượng: 0,2028 gam; Mẫu M2 gửi giảm định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0103 gam. Hành vi của bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, việc đưa ra truy tố và xét xử bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội.
[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Xét bị cáo là phụ nữ đã có gia đình chồng con, có sức khỏe và khả năng lao động nhưng bị cáo không biết tu dưỡng, rèn luyện bản thân sống có ích cho gia đình và xã hội, mà lại nghiện ma túy, tàng trữ ma túy để sử dụng. Mặc dù, bị cáo có con nhỏ nhưng bị cáo không trực tiếp nuôi con nhỏ, giao con cho ông bà nuôi, bị cáo bỏ địa phương sống lang thang không có nơi cư trú ổn định, tàng trữ, sử dụng ma túy gây mất trật tự xã hội. Bị cáo thừa biết ma túy là chất gây nghiện, người sử dụng ma túy ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể chất, tinh thần, là nguyên nhân của các tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật tài sản,...Vì vậy, Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy, nhằm tạo môi trường sống, học tập, lao động lành mạnh cho công dân và xã hội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh để răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Do đó, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; hoàn cảnh gia đình khó khăn, có con nhỏ; trình độ học vấn thấp (lớp 3) nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Miễn cho bị cáo do không có nghề nghiệp ổn định.
[7] Về xử lý vật chứng và về vấn đề khác: Theo như nhận định và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
[9] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải nộp án phí theo quy định. [10] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Tôn Thị Hồng N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Tôn Thị Hồng N 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 19/12/2023.
Hình phạt bổ sung: Miễn cho bị cáo.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy 01 gói mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng M1 0,1718 gam được niêm phong số 407/KL-KTHS ngày 27/12/2023 có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng K, Công an thành phố C và chữ ký các bộ niêm phong Nguyễn Đoàn Trường A.
- Tịch thu tiêu hủy 02 ống bom kim tiêm đã qua sử dụng.
(Vật chứng được lưu giữ tại kho vật chứng thuộc Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh theo Quyết định chuyển vật chứng số 16/QĐ-VKSVT ngày 11/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Tôn Thị Hồng N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 13/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 13/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về