TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 25/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 4 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2024/TLST- HS, ngày 10 tháng 4 năm 2024.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2024/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2024, đối với:
- Bị cáo: Dương Văn T, sinh ngày 07/9/1989, tại thị xã H, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Khối T, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Quang T1 và bà Nguyễn Thị H; vợ Nguyễn Thị N và có 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11 tháng 01 năm 2024 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963; nơi cư trú: Khối T, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ ngày 09/01/2024, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Dương Văn T gọi điện thoại cho Trần Lê Thục Đ (khoảng 30 tuổi, trú tại thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, T không biết địa chỉ cụ thể) hỏi mua ma túy đá số lượng 02 hộp 05 để sử dụng thì Đan báo giá 3.000.000 đồng. Đến sáng ngày 11/01/2024, Đ gọi điện cho Tân báo đã cất ma túy trong một bức tranh và gửi cho xe khách, khi nào xe ra đến H thì nhà xe sẽ gọi cho T. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, nhân viên xe khách gọi điện cho Dương Văn T hỏi địa chỉ nhận hàng, T hẹn nhận ở khu vực Quốc lộ A gần ngã ba xuống phường Q (thuộc khối T, phường Q, thị xã H), T điều khiển xe ô tô Hyundai i20, màu đỏ, biển số 37A- 024xx đến điểm hẹn. Đến khoảng 11 giờ 20 phút cùng ngày, xe khách đến nơi, nhà xe giao cho T01 gói hàng hình chữ nhật, T biết bên trong có ma túy nên trả tiền cước 150.000 đồng rồi lên xe ra về. Lúc vừa lên xe T bị Công an thị xã H kiểm tra, phát hiện cất giấu 01 gói hàng hình chữ nhật bên trong có 01 bức tranh và 26 gói ni lông màu trắng chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy, T khai nhận đó là ma túy vừa mua, chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 26 gói ni lông màu trắng nói trên, đồng thời tạm giữ của T 01 (một) xe ô tô và 01 (một) chiếc điện thoại di động, đưa người cùng vật chứng về trụ sở làm việc.
Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H, tỉnh Nghệ An tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và trưng cầu giám định về chất ma túy. Tại Kết luận giám định số 163/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 16/01/2024 của Phòng K Công an tỉnh N, kết luận: “Các mẫu hạt tinh thể màu trắng (ký hiệu từ M1 đến M26) thu giữ của Dương Văn T gửi đến giám định đều là ma túy, loại Methamphetamine. Các mẫu hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Dương Văn T có tổng khối lượng là 7,4g (bảy phẩy bốn gam)”.
Cáo trạng số 20/CT-VKSHM ngày 09/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai đã truy tố Dương Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2, Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm g khoản 2, Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Dương Văn T mức án từ 05 năm tù đến 05 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì thư bưu điện viền xanh đỏ, kích thước (12x18) cm được niêm phong dán kín đúng quy định, bên trong có 26 gói ni lông màu trắng bên trong chứa 3,72 gam các hạt tinh thể màu trắng là ma túy (Methamphetamine) có ký hiệu từ M1-M26 và 26 gói ni long màu trắng ban đầu.
Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh có số Imei 1: 357761104066184, số Imei 2: 357761104566183, bên trong có chứa sim số thuê bao 0967.895.71x, máy đã qua sử dụng.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Tại phiên tòa, bị cáo Dương Văn T đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị H không có ý kiến gì.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tội danh và khung hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo Dương Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Vào hồi 11 giờ 20 phút ngày 11/01/2024, tại đường Q thuộc khu vực khối T, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An, Dương Văn T có hành vi cất giấu trên xe ô tô Huyndai Í20, màu đỏ, biển số 37A-024.xx ma túy (Methamphetamine) có khối lượng 7,4 gam với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an thị xã H phát hiện bắt quả tang. Với hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3]. Về hình phạt chính: Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ngoài ra bị cáo có có bố đẻ là ông Dương Quang T1 được Hội chữ thập đỏ huyện Q tặng Giấy khen vì đã có nhiều đóng góp vào hoạt động nhân đạo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
[5]. Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu Hyundai i20, màu đỏ, biển số 37A- 024.xx, là xe của bà Nguyễn Thị H - mẹ của Dương Văn T, khi Dương Văn T lấy xe ô tô đi lấy ma túy thì bà H không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu đúng quy định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với 01 phong bì thư bưu điện viền xanh đỏ, kích thước (12x18) cm được niêm phong dán kín đúng quy định, bên trong có 26 gói ni lông màu trắng bên trong chứa 3,72 gam các hạt tinh thể màu trắng là ma túy (Methamphetamine) có ký hiệu từ M1-M26 và 26 gói ni long màu trắng ban đầu. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, vì vậy cần tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh có số Imei 1: 357761104066184, số Imei2: 357761104566183, bên trong có chứa sim số thuê bao 0967.895.71x, máy đã qua sử dụng. Đây là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng để liên hệ mua ma túy. Vì vậy, cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
[6]. Đối với đối tượng Trần Lê Thục Đ bán ma túy cho Dương Văn T. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hỉnh sự sơ thẩm theo quy định.
[8]. Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm g, khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Duong Văn T 05 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam là ngày 11 tháng 01 năm 2024.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu và tiêu hủy: 01 phong bì thu bưu điện viền xanh đỏ, kích thước (12x18) cm được niêm phong dán kín đúng quy định, bên trong có 26 gói ni lông màu trắng bên trong chứa 3,72 gam các hạt tinh thể màu trắng là ma túy (Methamphetamine) có ký hiệu từ M1-M26 và 26 gói ni long màu trắng ban đầu.
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh có số Imei 1: 357761104066184, số Imei2: 357761104566183, bên trong có chứa sim số thuê bao 0967.895.71x.
(Đặc điểm, tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/4/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H, tỉnh Nghệ An và Chi Cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Dương Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Dương Văn T, bà Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án 13/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 13/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về