TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÌNH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 13/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại Nhà văn hóa khu 7, thị trấn Đình Lập, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2022/TLST/HS ngày 18 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:
Vi Xuân T, sinh ngày 12 tháng 6 năm 1987, tại thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu *, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Xuân T1 (đã chết) và bà Tô Thị B, sinh năm 1960; có vợ là Sầm Thị H, sinh năm 1991 và 02 con; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Năm 2013 bị Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Cướp giật tài sản theo Bản án số 54/2013/HSST, ngày 22/3/2013 (đã được xóa án tích); bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21/01/2022 đến 24/01/2022 chuyển sang tạm giam đến nay. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Chị Sầm Thị H, sinh năm 1991; địa chỉ: Khu *, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 21/01/2022 Vi Xuân T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12Z1-056.10 từ nhà đến khu *, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn tiến hành kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Vi Xuân T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng; 03 gói giấy hình chữ nhật bên trong có chứa chất bột màu trắng.
Quá trình điều tra Vi Xuân T khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy và đang điều trị bằng hình thức uống Methadol tại Trạm y tế thị trấn N, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Khoảng 7 giờ ngày 21/01/2022 Vi Xuân T một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12Z1-056.10 đến Trạm y tế thị trấn N, huyện B, tỉnh Lạng Sơn để uống Methadol. Khoảng 08 giờ 45 phút cùng ngày Vi Xuân T tiếp tục điều khiển xe mô tô từ Trạm y tế thị trấn N, huyện B, tỉnh Lạng Sơn đến ngã tư M, thành phố Lạng Sơn gặp một người đàn ông hành nghề xe ôm, không biết rõ họ tên, địa chỉ và đưa cho 500.000 đồng để mua ma túy với mục đích để sử dụng. Khoảng 15 phút sau người đàn ông đó quay lại đưa cho Vi Xuân T 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa Heroin. Khi mua ma túy xong Vi Xuân T điều khiển xe mô tô từ thành phố Lạng Sơn về nhà ở khu *, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Tại nhà Vi Xuân T đã lấy một lượng Heroin để sử dụng, phần Heroin chưa sử dụng Vi Xuân T dùng 03 mảnh giấy gói thành 03 gói hình chữ nhật để ở túi ngực trong của áo khoác thứ hai đang mặc, còn một phần để nguyên trong túi nilon, Vi Xuân T cho vào ví rồi cất ví vào túi quần ở đằng sau bên phải. Đến khoảng 18 giờ 30 phút, cùng ngày Vi Xuân T điều khiển xe mô tô từ nhà đến khu *, thị trấn Đ, huyện L thì bị lực lượng Công an huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn tiến hành kiểm tra phát hiện và bắt giữ.
Tại Bản kết luận giám định số 76/KL-PC09, ngày 23/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroin, có tổng khối lượng 0,234 gam (đã trừ bì).
Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKSĐL ngày 18/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Vi Xuân T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Vi Xuân T đã thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo thực hiện như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo cho rằng chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12Z1-056.10 mà bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy là tài sản đứng tên vợ bị cáo và số tiền 3.155.000 đồng bị thu giữ là số tiền mà vợ bị cáo đưa cho bị cáo để mua sữa cho con và mua gạo nhưng bị cáo chưa kịp mua thì bị bắt, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại xe mô tô và số tiền bị tạm giữ cho vợ bị cáo là Sầm Thị H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Sầm Thị H trình bày tại phiên tòa: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12Z1-056.10 là chiếc xe do chị mua từ năm 2018 và đăng ký tên của chị. Đây là phương tiện để sử dụng chung của gia đình chị. Việc bị cáo Vi Xuân T sử dụng chiếc xe đi mua Heroin chị không biết nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe cho chị. Ngoài ra, ngày 20/01/2022 chị còn được đưa cho chồng chị số tiền khoảng 3.200.000 đồng để mua sữa cho con và mua gạo. Số tiền này là do chị lao động mà có được nên mong Hội đồng xét xử trả lại cho chị.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vi Xuân T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;
điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vi Xuân T từ 14 (mười bốn) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì có chữ viết tay họ-tên của Vi Xuân T (cũ) có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh Thái, trợ lý giám định viên và các dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 01 (một) gói giấy đựng 0,206 gam Heroin và các vỏ bao gói (cũ); 07 mảnh giấy hình vuông cạnh 4cm. Trả cho bị cáo Vi Xuân T 01 điện thoại IPHONE 6S màu xám có số IMEI 3553990860015, điện thoại cũ màn hình có nhiều vết nứt vỡ. Trả cho chị Sầm Thị H 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave màu trắng đen, biển kiểm soát 12Z1-05610, số khung 3907HY652407, số máy JA39E0627375, xe cũ đã qua sử dụng; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 004673 mang tên Sầm Thị H, biển số đăng ký 12Z1-05610; số tiền 3.155.000đ (ba triệu một trăm năm mươi năm nghìn đồng) được niêm phong trong phong bì dán kín có chữ ký của những người tham gia và hình dấu của Công an thị trấn Đình Lập - Công an huyện Đình Lập, hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lạng Sơn. Về án phí, buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 21/01/2022 tại khu *, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn Vi Xuân T có hành vi tàng trữ 0,234 gam Heroin thì bị bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Vi Xuân T đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tác hại của ma túy ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự an toàn xã hội nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố ý tàng trữ trái phép.
[4] Để quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[7] Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy và đã từng bị kết án, mặc dù đã được xóa án tích nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân không tốt.
[8] Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, xét thấy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.
[9] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 13/02/2022 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đình Lập, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn thể hiện bị cáo không có tài sản riêng, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[10] Về xử lý vật chứng gồm: 01 (một) phong bì có chữ viết tay họ-tên của Vi Xuân T (cũ) có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh Thái, trợ lý giám định viên và các dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 01 (một) gói giấy đựng 0,206 gam Heroin và các vỏ bao gói (cũ) là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu để tiêu huỷ. Đối với 07 mảnh giấy hình vuông cạnh 4cm không có giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy. Chiếc điện thoại IPHONE 6S màu xám có số IMEI 3553990860015, điện thoại cũ màn hình có nhiều vết nứt vỡ, đây là tài sản của bị cáo Vi Xuân T, qua kiểm tra đã làm rõ không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave màu trắng đen, biển kiểm soát 12Z1-05610, số khung 3907HY652407, số máy JA39E0627375, xe cũ đã qua sử dụng; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 004673 mang tên Sầm Thị H, biển số đăng ký 12Z1-05610, đây là tài sản của chị Sầm Thị H, chiếc xe được sử dụng làm phương tiện đi lại chung cho gia đình, việc bị cáo sử dụng chiếc xe làm phương tiện đi mua và tàng trữ trái phép chất ma túy chị Sầm Thị H không biết, do đó trả lại cho chị Sầm Thị H chiếc xe mô tô và giấy tờ kèm theo. Số tiền 3.155.000đ (ba triệu một trăm năm mươi năm nghìn đồng) đang bị tạm giữ không liên quan đến việc phạm tội do đó trả lại cho chủ sở hữu là chị Sầm Thị H.
[11] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Vi Xuân T tại ngã tư M, thành phố Lạng Sơn do không xác định được nhân thân, lai lịch nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn không có cơ sở để xác minh làm rõ. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[12] Trong quá trình điều tra bị cáo Vi Xuân T còn khai nhận trước đó đã từng mua ma túy nhiều lần với nhiều đối tượng không quen biết nhưng không chứng minh được hành vi phạm tội đối với những lần mua ma túy này nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.
[13] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, mức hình phạt và các nội dung khác của vụ án là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[14] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[15] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ vào điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vi Xuân T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vi Xuân T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 21/01/2022.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về vật chứng:
3.1. Tịch thu để tiêu hủy: 01 (một) phong bì có chữ viết tay họ-tên của Vi Xuân T (cũ) có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh Thái, trợ lý giám định viên và các dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 01 (một) gói giấy đựng 0,206 gam Heroin và các vỏ bao gói (cũ);
07 mảnh giấy hình vuông cạnh 4cm.
3.2. Trả cho bị cáo Vi Xuân T: 01 (một) điện thoại IPHONE 6S màu xám có số IMEI 3553990860015, điện thoại cũ màn hình có nhiều vết nứt vỡ.
3.3. Trả cho chị Sầm Thị H: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave màu trắng đen, biển kiểm soát 12Z1-05610, số khung 3907HY652407, số máy JA39E0627375, xe cũ đã qua sử dụng; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 004673 mang tên Sầm Thị H, biển số đăng ký 12Z1-05610; số tiền 3.155.000đ (ba triệu một trăm năm mươi năm nghìn đồng) được niêm phong trong phong bì dán kín có chữ ký của những người tham gia và hình dấu của Công an thị trấn Đình Lập – Công an huyện Đình Lập, hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lạng Sơn.
(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18 tháng 5 năm 2022 giữa Công an huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn).
4. Về án phí: Buộc bị cáo Vi Xuân T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-ST
Số hiệu: | 13/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đình Lập - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về