Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 13/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Vũ Văn T, sinh ngày 05/9/1974 tại Thái Bình; nơi cư trú: Số nhà X, tổ Y, phường B, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Vũ Văn T (đã chết) và bà Vũ Thị N (đã chết); có vợ là Trần Thị M và 02 con, con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2001.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Bản án số 126/2007/HSST ngày 17/9/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/4/2009, chấp hành xong án phí năm 2008.

- Bản án số 191/2012/HSST ngày 19/11/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/02/2015, chấp hành xong án phí ngày 02/4/2013.

- Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 58/QĐ-TA ngày 24/10/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình 18 tháng. Chấp hành xong ngày 28/4/2018.

Bị tạm giữ từ ngày 27/11/2020 đến ngày 03/12/2020 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

- Người chứng kiến:

+ Anh Hà Đức T, sinh năm 1999, trú tại: Thôn T, xã Đ, thành phố T, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt)

+ Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 2001, trú tại: Thôn C, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 26/11/2020, Vũ Văn T điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Nouvo, màu đen vàng, biển kiểm soát 17L4-7108 từ nhà đến khu vực chợ BOT thuộc tổ 11, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp và hỏi mua của một người nam giới, không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng, T nhận và cất vào túi quần bên trái đang mặc và điều khiển xe máy đi tìm chỗ vắng để sử dụng. Khi đến khu vực đường Quang Trung thuộc tổ 02, phường Quang Trung thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thái Bình yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Hà Đức T và anh Nguyễn Văn D, T tự giác lấy từ túi quần bên trái của T, giao nộp cho tổ công tác 01 gói được gói bằng nilon màu đen, mở kiểm tra bên trong được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, trong cùng chứa chất bột màu trắng dạng cục, T khai là Hêrôin mua để sử dụng. Tổ công tác yêu cầu T, mời người chứng kiến và đưa phương tiện về trụ sở Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình để kiểm tra, thu tại túi quần bên trái của T 01 điện thoại Nokia, màu đỏ đen, thu tại túi quần hậu bên phải 01 ví giả da màu xanh bên trong có 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Văn T, 01 đăng ký xe máy mang tên Đỗ Xuân M và số tiền 137.000 đồng, kiểm tra xe máy của T không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản kiểm tra và quản lý phương tiện, điện thoại.

Tại Kết luận giám định số 417/KLGĐMT - PC09 ngày 27/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng quản lý của Vũ Văn T, sinh năm 1974, ĐKHKTT tại Số nhà X, tổ Y, phường B, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, ngày 26/11/2020” là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,2864 gam" (Không phẩy hai nghìn tám trăm sáu mươi tư gam).

Bản Cáo trạng số 25/CT-VKSTPTB ngày 01 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để xét xử đối với Vũ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm đã truy tố trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự đề nghị: Xử phạt bị cáo Vũ Văn T mức án từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 27/11/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy được niêm phong trong phong bì số 417/KLGĐMT. Trả lại bị cáo 01 điện thoại Nokia màu đỏ đen đã cũ, 01 ví giả da màu xanh, 137.000 đồng, 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Văn T. Quản lý điện thoại Nokia màu đỏ đen và 137.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo Vũ Văn T nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 26/11/2020, tại khu vực đường Quang Trung, tổ 02, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Vũ Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2864 gam ma túy, loại Hêrôin, mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi trên của Vũ Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

Hành vi của Vũ Văn T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, ma túy là loại chất gây nghiện gây tác hại xấu cho sức khỏe con người, là nguyên nhân phá hoại hạnh phúc của bao gia đình và còn phát sinh các tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người đã thành niên, có nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[3] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố đối với bị cáo Vũ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Số ma túy còn lại sau giám định và bao gói thu giữ của bị cáo Vũ Văn T là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với các tài sản quản lý của bị cáo gồm: 01 điện thoại Nokia màu đỏ đen, 01 ví giả da màu xanh, 137.000 đồng, 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó trả lại cho bị cáo. Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Nouvo, màu đen vàng, biển kiểm soát 17L4 – 7108, cuối năm 2018 anh Đỗ Xuân Mạnh đã bán cho bị cáo T với giá 4.000.000 đồng, khi bán có giao giấy đăng ký xe mang tên Đỗ Xuân M. Ngày 02/12/2020, bị cáo T có giấy ủy quyền cho em trai là Vũ Bính T để xin nhận lại chiếc xe trên. Ngày 15/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình đã ra quyết định trả xe trên và giấy đăng ký xe mang tên Đỗ Xuân M cho anh Vũ Bính T.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Vũ Văn T khai mua của một người nam giới, không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực chợ BOT thuộc tổ 11, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật hình sự, Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 27/11/2020).

3.Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của Vũ Văn T còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 417/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

3.2. Trả lại bị cáo Vũ Văn T 01 điện thoại Nokia màu đỏ đen đã cũ có số IMEI 353413093429650/72; 353413091729655/72, 01 ví giả da màu xanh, 137.000 đồng (một trăm ba mươi bảy nghìn đồng), 01 chứng minh nhân dân mang tên Vũ Văn T.

(Các vật chứng trên đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/02/2021).

4. Về án phí: Bị cáo Vũ Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 22/02/2021.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 13/2021/HS-ST

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;