Bản án 129/2023/HS-PT về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 129/2023/HS-PT NGÀY 20/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 922/2022/TLPT-HS ngày 23 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Hoàng H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 509/2022/HS-ST ngày 16/11/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Hoàng H (Tên gọi khác: Nh), sinh năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: số 830/15 ĐVB, Phường 16, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Hà Thị Th; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 03/7/2020, đến ngày 18/02/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có 03 (ba) bị cáo khác nhưng không có kháng cáo và không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 45 phút ngày 29/6/2020, tại trước nhà số 496 ĐVB, Phường 14, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 4 phát hiện Lê Văn T đang điều khiển xe gắn máy biển số 59C1-491.xx chở vợ là Bùi Ngọc A có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Khi T dừng xe, Ngọc A ngồi sau bước xuống xe cho tay phải vào túi quần phía trước đang mặc lấy ra 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, nghi là ma túy thả xuống đất, cùng lúc đó T vùng bỏ chạy để tẩu thoát nhưng đã bị bắt giữ. Tổ tuần tra đã đưa T và Ngọc A cùng vật chứng là 01 gói nylon chứa tinh thể không màu của Ngọc A về trụ sở Công an Phường 14, Quận 4 để lập hồ sơ xử lý. Qua giám định gói nylon đã thu giữ kết quả là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5774 gam, loại Methamphetamine.

Ngọc A và T khai nhận số ma túy bị thu giữ là ma túy Ngọc A và T mua của Đào Kim Ng tại nhà số 148/12/30/1/12 TĐ, Phường 8, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngọc A và T khai nhận số ma túy này Ngọc A và T mua giúp cho Nguyễn Hoàng H để mang về cùng nhau sử dụng.

Vào lúc 15 giờ 00 phút ngày 01/7/2020, tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Ng tại nhà số 148/12/30/1/12 TĐ, Phường 8, Quận 4 phát hiện, thu giữ: tại Lầu 1 có 18 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 29,5307 gam, loại Methamphetamine; 03 cân tiểu ly; nhiều bịch nylon không chứa gì; 03 điện thoại di động.

Ngày 03/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Ng và H.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Đào Kim Ng đang được hoãn thi hành án hình phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” để chữa bệnh nhưng do hoàn cảnh khó khăn, bản thân lại bị bệnh nên từ tháng 3/2020 Ng tiếp tục hoạt động mua bán trái phép chất ma túy để có tiền tiêu xài. Nguồn ma túy, Ng mua của đối tượng tên Nhóc E (không rõ lai lịch), mang về chỗ ở rồi sử dụng cân tiểu ly phân nhỏ, bán lại cho người nghiện với giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng, thu lợi bất chính 50.000 đồng/gói. Ng đã mua ma túy của Nhóc E 03 lần, mỗi lần 10 gam ma túy tổng hợp (Methamphetamine) với giá 3.400.000 đồng vào khoảng đầu tháng 3/2020, ngày 20/6/2020 và ngày 29/6/2020. Lần 1 Ng đã bán hết, lần 2 và lần 3 chưa bán hết thì bị phát hiện, thu giữ. Trong số người mua, Ng đã bán ma túy cho H 02 lần, mỗi lần 01 gói với giá 200.000 đồng, lần đầu H trực tiếp đến gặp Ng để mua; lần 2, H gọi điện cho Ng hỏi mua và Ngọc A đến gặp Ng lấy ma túy. Ng bán ma túy cho Ngọc A 01 lần vào ngày 29/6/2020, 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng.

Nguyễn Hoàng H khai nhận: H nghiện ma túy tổng hợp dạng đá nên đã mua ma túy của Ng 03 lần, lần 1: vào khoảng đầu tháng 3/2020, H thuê Ngọc A chở đến nhà Ng mua 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng, trả công cho Ngọc A 50.000 đồng rồi mang về chỗ ở sử dụng; lần 2: vào khoảng tháng 5/2020, H gọi điện cho Ng mua thiếu 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng và nói Ngọc A đến gặp Ng nhận ma túy, T sử dụng xe gắn máy chở Ngọc A đi rồi mang ma túy về chỗ ở của H để cả ba người cùng sử dụng, lần này H không trả công cho Ngọc A; lần 3: vào sáng ngày 29/6/2020, H đến chỗ ở của Ngọc A đưa cho Ngọc A 400.000 đồng, nói đến gặp Ng mua 300.000 đồng ma túy, còn 100.000 đồng là H cho Ngọc A.

Bùi Ngọc A và Lê Văn T khai nhận phù hợp với lời khai của Ng và H. Sau khi nhận tiền của H, đến 21 giờ 15 phút ngày 29/6/2020, Ngọc A nói T chở Ngọc A đến chỗ ở của Ng để mua ma túy cho H thì T đồng ý. Ngọc A gặp Ng mua 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng rồi nói T chở về chỗ ở của H để đưa ma túy cho H thì bị bắt quả tang như nêu trên.

Toàn bộ vật chứng là ma túy đã được giám định, kết quả thể hiện tại bản Kết luận giám định số 1122/KLGĐ-H ngày 08/7/2020 và số 1141/KLGĐ-H ngày 10/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09), Công an thành phố Hồ Chí Minh.

Đối với đối tượng Nhóc E bán ma túy cho Ng và các đối tượng khác mua ma túy của Ng, do Ng khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ để xử lý.

- Vật chứng vụ án, gồm có:

+ Thu của Đào Kim Ng: 02 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1141/2020 (gói 1, 2), có chữ ký của Giám định viên Phan Hoàng Tr và Điều tra viên Trương Minh N, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 02 cân điện tử màu bạc; 01 cân điện tử màu đen-bạc; một số bịch nylon không chứa gì; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng.

+ Thu của Bùi Ngọc A và Lê Văn T: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1122/2020, có chữ ký của Giám định viên Phan Hoàng Tr và Điều tra viên Trương Minh N, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng của Ngọc A; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh của Tú; 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại Luvias, biển số 59C1- 491.xx, màu trắng-xám, số khung: RLCL1SK10EY013802, số máy: 1SK1013804 do Lê Văn T đứng tên sở hữu.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 509/2022/HS-ST ngày 16/11/2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt Nguyễn Hoàng H 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2020 đến ngày 18/02/2022.

Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Đào Kim Ng 16 (mười sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 115/2017/HSST ngày 29/12/2017 của Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo Ng phải chấp hành hình phạt chung của cả 02 (hai) bản án là 18 (mười tám) năm tù; xử phạt bị cáo Bùi Ngọc A 01 (một) năm 07 (bảy) tháng 19 (mười chín) ngày tù và bị cáo Lê Văn T 01 (một) năm 07 (bảy) tháng 19 (mười chín) ngày tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 21/11/2022, bị cáo Nguyễn Hoàng H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Bị cáo Nguyễn Hoàng H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do, trong vụ án này, bị cáo đã bị tạm giam 01 năm 07 tháng 18 ngày nên đã nhận thức được lỗi lầm của mình và tác hại của ma túy, hiện nay bị cáo không còn sử dụng ma túy nữa và đang có công việc ổn định là chạy xe Grab giao hàng kiếm tiền chăm sóc mẹ già gần 70 tuổi. Bị cáo có cung cấp cho Tòa án cấp phúc thẩm các tài liệu: các tờ Kết quả xét nghiệm ngày 10/3/2023 và ngày 16/3/2023 của Bệnh viện Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện bị cáo không còn sử dụng ma túy; tờ Biên lai thu tiền số: AA/2022/0002346 ngày 10/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: tạm thu 200.000 đồng của bị cáo H chờ quyết định bản án sơ thẩm.

+ Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và phần xét hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, có đủ căn cứ xác định, cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Hoàng H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội theo quy định pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng H là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo H là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đủ đảm bảo răn đe, phòng chống tội phạm nói chung, đặc biệt đối với tội phạm về ma túy trong tình hình hiện nay. Bị cáo Nguyễn Hoàng H kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết nào mới đủ cơ sở để chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của bị cáo H, giữ nguyên quyết định về hình sự của bản án sơ thẩm đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng H nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của pháp luật nên hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, các hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, các hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hoàng H đã thừa nhận hành vi phạm tội đúng như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết. Xét lời khai nhận tội của bị cáo H phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa và tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đủ cơ sở xác định như sau:

Sáng ngày 29/6/2020, Nguyễn Hoàng H đến nhà Bùi Ngọc A đưa cho Bùi Ngọc A 400.000 đồng, kêu Ngọc A đến gặp Đào Kim Ng để mua 300.000 đồng ma túy đá về sử dụng, còn 100.000 đồng là để Ngọc A đổ xăng. Theo đó, khoảng 21 giờ 15 phút ngày 29/6/2020, Lê Văn T chở Bùi Ngọc A từ chỗ làm về, Ngọc A kêu T chạy đến gặp Ng để mua ma túy đá về cùng H sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày, khi Ngọc A và T đang cất giữ 01 gói nylon chứa 0,5774 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine thì bị khám xét, bắt quả tang.

Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Nguyễn Hoàng H tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng người, đúng tội theo quy định pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng H là nghiêm trọng, gây nguy hại cho xã hội, xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội.

Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Hoàng H là người chỉ đạo, thuê và trả tiền công để bị cáo Bùi Ngọc A đi mua ma túy của Đào Kim Ng và đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nên cấp sơ thẩm xác định vai trò của bị cáo H cao hơn nên mức hình phạt của bị cáo H cũng phải cao hơn so với bị cáo Ngọc A và bị cáo Lê Văn T. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo H 02 (hai) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ tham gia tội phạm của bị cáo, đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, cụ thể: Trước khi phạm tội, bị cáo H có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự; trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hoàng H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do, trong vụ án này, bị cáo đã bị tạm giam 01 năm 07 tháng 18 ngày nên đã nhận thức được lỗi lầm của mình và tác hại của ma túy, hiện nay bị cáo không còn sử dụng ma túy nữa và đang có công việc ổn định là chạy xe Grab giao hàng kiếm tiền chăm sóc mẹ già gần 70 tuổi. Bị cáo đã tự nguyện nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quyết định của bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo với những lý do như trên là không đủ cơ sở để chấp nhận.

Số tiền 200.000 đồng bị cáo Nguyễn Hoàng H đã tự nguyện nộp theo Biên lai thu tiền số: AA/2022/0002346 ngày 10/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh sẽ được cấn trừ khi bị cáo H thi hành án theo quyết định của bản án xét xử vụ án này có hiệu lực pháp luật theo quy định.

[5] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng H, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo H.

[6] Bị cáo Nguyễn Hoàng H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

1- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng H; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 509/2022/HS-ST ngày 16/11/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt Nguyễn Hoàng H (Tên gọi khác: Nh) 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2020 đến ngày 18/02/2022.

2- Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Hoàng H phải nộp 200.000 đồng.

3- Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật theo quy định pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 20 tháng 3 năm 2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 129/2023/HS-PT về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:129/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;