Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 125/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 125/2022/HS-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 6 năm 2022 , tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Trầm Văn L, sinh năm 2000 tại Trà Vinh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp S, xã L, huyện H, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trầm Văn H (đã chết) và bà Kiên Thị Ch, sinh năm 1978; chưa có vợ, con;

Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 21/9/2021, bị cáo L có hành vi xâm hại sức khỏe của người khác bị Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh xử phạt số tiền 2.500.000 đồng; bị cáo chưa nộp phạt theo quy định.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2022 đến nay;

có mặt.

2. Sơn Tr, sinh năm 1998 tại Trà Vinh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp R, xã L, huyện H, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sơn Ma R (đã chết) và bà Thạch Thị Ph, sinh năm 1965; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2022 đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo Trầm Văn L và Sơn Tr: Ông Cao Ngọc L – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Kiên Thị Ch, sinh năm 1978; địa chỉ: Ấp S, xã L, huyện H, tỉnh Trà Vinh; có mặt.

Người làm chứng: Ông Phạm Thanh Anh V; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Sơn Tr và bị cáo Trầm Văn L có mối quan hệ là bạn bè, cả hai đều là đối tượng nghiện ma túy, loại ma túy các bị các sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine).

Khoảng 14 giờ ngày 13/01/2022, bị cáo L điều khiển xe mô tô biển số 84M1-181.16 chở bị cáo Tr đi từ khu phố 4, phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên đến Thành phố Hồ Chí Minh chơi. Trên đường đi bị cáo Tr rủ bị cáo L mua ma túy để sử dụng, bị cáo L đồng ý. Khi cả hai đi đến địa phận thuộc quận Nh, Thành phố Hồ Chí Minh thì thuê khách sạn (không rõ tên, địa chỉ) để nghỉ. Tại khách sạn, bị cáo Tr gặp 01 người đàn ông tên gọi là Nhóc (không rõ nhân thân, địa chỉ) hỏi mua ma túy. Người đàn ông này đưa cho Tr 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể trắng là ma túy và bán với giá 1.500.000 đồng. Sau đó, Tr đưa cho người đàn ông này số tiền 1.500.000 đồng (trong đó, của Tr là 750.000 đồng và của L là 750.000 đồng) và cất giấu túi nylon vào túi áo. Sau khi mua được ma túy, Tr điều khiển xe mô tô biển số 84M1-181.16 chở L đi về phòng trọ của Tr, khi cả hai đi đến địa phận thuộc khu phố 3, phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên thì bị tổ tuần tra Công an phường Hội Nghĩa phát hiện có biểu nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát bên trong túi áo Tr đang mặc có 01 túi nylon miệng kéo dính có chứa ma túy, Tr và L khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy đá nên lực lượng tuần tra tiến hành niêm phong và đưa cả hai về trụ sở Công an phường Hội Nghĩa để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất tinh thể màu trắng.

Công an phường Hội Nghĩa tiến hành lập hồ sơ ban đầu bàn giao Tr và L cùng hồ sơ vụ việc, vật chứng cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Kết luận giám định số 85/MT-PC09 ngày 19/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (Một) túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể trắng thu giữ của Sơn Tr và Trầm Văn L là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 2,5046 gam.

Cáo trạng số 111/CT-VKS.TU ngày 25/4/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trầm Văn L và Sơn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự,

- Xử phạt bị cáo Trầm Văn L mức hình phạt từ 02 (Hai) năm đến 02 (Hai) năm 06 tháng tù.

- Xử phạt bị cáo Sơn Tr mức hình phạt từ từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng đến 03 (Ba) năm tù.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đã được niêm phong ký phong 85/PC09 bên trong chứa ma túy loại Methemphetamine khối lượng còn lại sau giám định.

Người bào chữa cho các bị cáo Trầm Văn L và Sơn Tr trình bày: Thống nhất nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên về việc truy tố bị cáo. Thống nhất mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; các bị cáo là người dân tộc thiểu số và khi phạm tội các bị cáo còn rất trẻ nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc mức hình phạt phù hợp nhất đối với các bị cáo để các bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, sớm tái hòa nhập cộng đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không tranh luận.

Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát và bị cáo đồng ý xet xử vắng mặt họ. Xét, sự vắng mặt của người này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt người làm chứng.

[3] Tại phiên tòa, các bị cáo Trầm Văn L và Sơn Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 18 giờ ngày 13/01/2022, tại khu phố 3, phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Trầm Văn L và Sơn Tr và có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, loại Methamphetamine với khối lượng 2,5046 gam nhằm mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo Trầm Văn L và Sơn Tr đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi mà các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện và thái độ coi thường pháp luật nên đã cố ý thực hiện. Do đó, cần xử các bị cáo thật nghiêm mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[5] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Tr phạm tội với vai trò khởi xướng, cho bị cáo L mượn tiền để cùng mua ma túy sử dụng, đồng thời bị cáo Tr còn trực tiếp mua ma túy; bị cáo L có 01 tiền sự là bị Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh xử phạt số tiền 2.500.000 đồng vì có hành vi xâm hại sức khỏe của người khác nhưng bị cáo L chưa nộp tiền phạt theo quy định. Vì vậy, khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc đến nhân thân, vai trò và tính nguy hiểm của từng bị cáo cho phù hợp.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo là người dân tộc thiểu số nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Đề nghị của người bào chữa cho các bị cáo Trầm Văn L và Sơn Tr là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.

[10] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đối với số ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định là vật chứng của vụ án và là chất cấm nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với xe mô tô biển số 84M1-181.16 do bà Kiên Thị Ch (là mẹ ruột của bị cáo L) đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Do bị cáo L không có xe để đi nên bà Ch cho L mượn. Việc L sử dụng xe mô tô biển số 84M1-181.16 để làm phương tiện đi mua ma túy, bà Ch không biết. Ngày 08/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số 04 và trả lại xe cho Kiên Thị Ch, là phù hợp.

[11] Đối với người đàn ông (không rõ nhân thân) kết quả điều tra đến nay chưa xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau; là phù hợp.

[12] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trầm Văn L và Sơn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự,

- Xử phạt bị cáo Trầm Văn L 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/01/2022.

- Xử phạt bị cáo Sơn Tr 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đã được niêm phong ký phong 85/PC09 bên trong chứa 2,4262 gam ma túy, loại Methemphetamine khối lượng còn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/4/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc các bị cáo Trầm Văn L và Sơn Tr mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 125/2022/HS-ST

Số hiệu:125/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;