TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 123/2022/HSST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 120/2022/TLST-HS ngày 06/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2022/QĐXXST-HS ngày 15/6/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2022/QĐ-TA ngày 27/6/2022; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 145/2022/QĐXXST-HS ngày 05/7/2022 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Đình D, tên gọi khác: Không; sinh năm 1963 tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tổ 7, phường C, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Cán bộ hưu; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đã bị xóa tên trong danh sách đảng viên theo Quyết định số 743-QĐ-TU ngày 02/3/2022 của Thành ủy Sơn La; con ông: Nguyễn Đình T (đã chết) và bà Trần Thị C (đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H (đã ly hôn) và 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2002; không tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/02/2022 đến nay, có mặt.
2. Vũ Văn B, tên gọi khác: Không; sinh năm 1967 tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Tổ 15, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Cán bộ hưu; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn B (đã chết) và bà: Nguyễn Thị N (đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị S, sinh năm 1967 và 01 con, sinh năm 1989; không tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/02/2022 đến nay, có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1967; nơi cư trú: Tổ 15, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn La, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 08 giờ ngày 16/02/2022, tổ công tác Công an huyện Thuận Châu làm nhiệm vụ tại khu vực bản N, xã B, huyện T, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang các đối tượng Nguyễn Đình D, Vũ Văn B có hành vi cấu giấu trái phép chất ma tuý.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 (Một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng nghi là Heroine và 03 viên nén hình trụ tròn màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (Nguyễn Đình D, Vũ Đình B khai là Heroine và hồng phiến); 01 xe máy biển kiểm soát 26K2 - 9220, nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS.
Hồi 14 giờ 00 phút cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh chất bột cục màu trắng và 03 viên nén hình trụ tròn màu hồng thu giữ của Nguyễn Đình D và Vũ Văn B.Cân tịnh chất bột cục màu trắng xác định được khối lượng 1,18 gam (Một phẩy mười tám gam) trích rút toàn bộ 1,18 gam ký hiệu D1 gửi giám định chất và loại ma túy. Cần tịnh 03 viên nén hình trụ màu hồng xác định được tổng khối lượng 0,31 g (Không phẩy ba mốt gam) trích rút toàn bộ 0,31 gam ký hiệu D2 gửi giám định chất và loại ma túy.
Tại Kết luận giám định số: 339 ngày 18/2/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 là ma túy; loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là: 1,18 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu D2 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là: 0,31 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ gồm: 1,18 gam, loại Heroine và 0,31 gam, loại Methamphetamine”. (Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định, ký hiệu D1 và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định, ký hiệu D2 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng: D1 = 0,89 gam, D2=0,10 gam.
Căn cứ Nghị định 19/NĐ- CP ngày 02/2/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tổng khối lượng chất ma túy Nguyễn Đình D và Vũ Văn B tàng trữ trái phép nhằm mục đích sử dụng cho bản thân là: 1,49 gam (Một phẩy bốn mươi chín gam) loại Heroine và loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra Nguyễn Đình D, Vũ Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 07 giờ ngày 16/02/2022, Nguyễn Đình D đang ở nhà một mình tại tổ 7, phường C, thành phố S, tỉnh Sơn La thì có Vũ Văn B điều khiển chiếc xe máy mang BKS: 26K2 - 9220, nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS đến chơi. Khi gặp nhau, D nói với B có số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) và rủ B lên huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy để cùng nhau sử dụng, B đồng ý. Sau đó D điều khiển xe máy của B chở B lên huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, khi đến khu vực bản N, xã B, huyện T thì D thấy Nguyễn Thị H (sinh năm:
1977), trú tại: Bản Hình, xã Tông Cọ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đang đứng bên đường liên bản nên D dừng xe rồi đi bộ đến gặp H để hỏi mua ma túy (H đứng cách vị trí D dừng xe khoảng 20m), còn B thì ngồi ở xe đợi. Khi gặp H thì D đã hỏi mua được một gói ma túy được gói bằng nilon màu trắng bên trong có chứa Heroine và 03 viên ma túy tổng hợp với giá 1.000.000đ (Một triệu đồng). Sau khi mua được ma túy thì D cầm bên tay trái rồi quay lại chỗ bảo đang đợi, khi đến nơi thì D đưa gói ma túy vừa mua được cho B xem và nói với B “Mua được ma túy rồi đi về thôi”, B không nói gì. Sau đó D cất gói ma túy vào trong túi quần đằng trước bên trái đang mặc, rồi điều khiển xe máy chở B đi về nhà. Khi D và B đi được khoảng 200 m vẫn thuộc bản N, xã B, huyện T thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu yêu cầu dừng xe để kiểm tra ma túy, quá trình kiểm tra đã thu giữ gói ma túy mà D đang cất giấu và thu giữ tang vật như đã nêu trên. Tổ công tác đã đưa Nguyễn Đình D và Vũ Văn B về trụ sở UBND xã Bon Phặng, huyện Thuận Châu lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Mở rộng vụ án đến 11 giờ 45 phút ngày 16/02/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với: Người, chỗ ở, đồ vật, thư tín của Nguyễn Thị H, tại: Bản Hình, xã Tông Cọ, huyện Thuận Châu. Kết quả khám xét: Không phát hiện tạm giữ gì liên quan đến ma túy.
Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 69/CT- VKS ngày 06 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình D từ 30 đến 36 tháng tù.
- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Vũ Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Vũ Văn B từ 28 đến 34 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 0,89 gam Heroine và 0,10 gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định đã bóc mở.
Trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị S: 01 chiếc xe máy mang BKS: 26K2 – 9220.
Buộc các bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử.
[2] Ngày 16/02/2022 các bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B đã có hành vi cất giấu trái phép 1,49 gam chất ma túy (gồm 1,18 gam Heroine và 0,31 gam Methamphetamine) với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bản Nong Ỏ, xã Bon Phặng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
Tại phiên tòa các bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 08 giờ 30 phút ngày 16/02/2022; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 339 ngày 18/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.
Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giấu trái phép 1,49 gam chất ma túy (gồm 1,18 gam Heroine và 0,31 gam Methamphetamine) với mục đích để sử dụng của các bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm. Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, có căn cứ.
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với các bị cáo, trên cơ sở xem xét vai trò của các bị cáo; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của các bị cáo.
Các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Nguyễn Đình D là người khởi xướng hành vi phạm tội, là người chuẩn bị tiền và trực tiếp trao đổi, mua ma túy để sử dụng; bị cáo Vũ Văn B là người tiếp nhận ý chí của D, trực tiếp điều khiển xe chở D đi mua ma túy. Do đó, cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo.
Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Đình D có bố đẻ là ông Nguyễn Đình Tứ là liệt sĩ, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Nguyễn Đình D khai mua của Nguyễn Thị H, sinh năm: 1977, trú tại: Bản Hình, xã Tổng Cọ, huyện Thuận Châu ở khu vực bản N, xã B, huyện T với giá 1.000.000đ (một triệu đồng) vào ngày 16/02/2022. Vũ Văn B khai không nhìn thấy, không biết người bán ma túy cho Nguyễn Đình D. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập, lấy lời khai và tiến hành đối chất giữa Nguyễn Đình D và Nguyễn Thị H, nhưng H không thừa nhận việc bán ma túy cho D. Ngoài lời khai của D, không có chứng cứ nào khác nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thị H về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[6] Vật chứng vụ án:
Đối với 0,89 gam Heroine và 0,10 gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định đã bóc mở là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với 01 chiếc xe máy mang BKS: 26K2 - 9220 là phương tiện Vũ Văn B dùng vào việc phạm tội, xét đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo Vũ Văn B, việc Vũ Văn B sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy thì bà Nguyễn Thị S (vợ bị cáo Vũ Văn B) không biết, không liên quan, cần trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị S, căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự.
[7] Về án phí:
Bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình D 26 (hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 16/02/2022).
- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Vũ Văn B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Vũ Văn B 26 (hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 16/02/2022).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Nguyễn Đình D cùng đồng phạm TTTPCMT, bắt ngày 16/02/2022. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 024416 đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu. Bên trong có: Một mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; Một phong bì màu trắng niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Nguyễn Đình D - TTTPCMT, xảy ra ngày 16/02/2022, gồm có: 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở niêm phong và chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu D1 và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu D2, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng D1 = 0,89 gam là ma tuý, loại Heroine và D2 = 0,10 gam là ma tuý, loại Methamphetamine. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 099005 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có 03 dòng chữ ký kèm 03 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của phỏng KTHS Công an tỉnh Sơn La.
- Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị S: Một chiếc xe máy, BKS: 26K2 - 9220, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, Sơn màu xanh - đen, số khung: 121778, số máy: 121778, đã qua sử dụng cũ. Xe có chìa khoá.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/5/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo Nguyễn Đình D, Vũ Văn B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.
Bản án 123/2022/HSST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 123/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về