Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN E, TỈNH ĐẮK LẮK

 BẢN ÁN 12/2023/HS-ST NGÀY 16/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/02/2023 tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân Huyện E mở phiên toà xét xử công khai, trực tuyến vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2023, đối với bị cáo:

Bị cáo tham gia tố tụng tại điểm cầu thành phần, họ và tên: Phạm Tấn C, sinh năm 1995, tại tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay và nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố 8, thị trân Ea Drăng, Huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Thành T, sinh năm 1957 và bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1959; Tiền án: Có 01 tiền án, tại bản án số 217/HSPT ngày 28/11/2019, của Toà án nhân dân thành phố Đã Năng xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/3/2021. Bị cáo chấp hành xong hình phạt, nhưng chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án số 29/HSST ngày 10/4/2013, của Toà án nhân dân Huyện E xử phạt bị cáo 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”; Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 46/QĐ-CAH, ngày 20/3/2019, của Công an Huyện E phạt bị cáo về hành vi Xâm hại đến sức khỏe của người khác.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/10/2022, đến ngày 26/10/2022 chuyển sang tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an Huyện E. Có mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện E tại điểm cầu thành phần: Ông Nguyễn Quốc K - Kiểm sát viên.

Người tham gia tố tụng tại điểm cầu trung tâm:

Người chứng kiến: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1992. Trú tại: Tổ dân phố 7, thị trân Ea Drăng, Huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt Người tham gia tham gia tố tụng khác tại điểm cầu thành phần:

Cán bộ, chiến sỹ thuộc cơ sở giam giữ và cảnh sát hỗ trợ tư pháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 17/10/2022, Phạm Tấn C đi bộ từ nhà C ở Tổ dân phố 8, thị trấn Ea Drăng, Huyện E, đến đoạn đường thuộc Tổ dân phố 9, thị trấn Ea Drăng, Huyện E để tìm mua ma túy. Khi đến nơi C gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lại lịch) hỏi mua 1.500.000 đồng ma túy thì được người đàn ông này đồng ý và bán cho C 01 gói nylon không màu bên trong có 04 gói nhựa, đều có chứa chất ma túy. Sau khi mua được ma túy, C cất giấu vào trong người rồi đi bộ về nhà thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện E phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ 01 gói nylon không màu, bên trong có 04 gói nhựa đều có chứa chất ma túy, C khai nhận mua về để sử dụng cho bản thân. Cơ quan Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ vật chứng và niêm phong theo quy định.

Tại Kết luận giám định số 1042/KL-KTHS ngày 25/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn màu trắng chứa trong 04 gói nhựa được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,8462 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định là 0,8147 gam.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS, ngày 16/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện E truy tố bị cáo Phạm Tấn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đánh giá về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo và xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tấn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Tấn C từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 17 tháng 10 tháng 2022.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Cần tịch thu tiêu hủy 0,8147 gam ma túy, loại:

Methamphetamine còn lại sau giám định là vật chứng của vụ án.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố và cũng không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo trình bày nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện E, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện E, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vào lúc 15 giờ ngày 17/10/2022, tại Tổ dân phố 9, thị trấn Ea Drăng, Huyện E, Phạm Tấn C đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,8462 gam chất ma tuý, loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị Công an Huyện E phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tại Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, nên cần chấp nhận.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, ngoài việc xâm hại đến các chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy còn góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội tại địa phương và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu: Tại bản án số 29/HSST ngày 10/4/2013, của Toà án nhân dân Huyện E xử phạt bị cáo 05 năm tù về tội “Cướp tài sản” và bị cáo có 01 tiền án: Tại bản án số 217/HSPT ngày 28/11/2019, của Toà án nhân dân thành phố Đã Năng xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt vụ án trên, nhưng chưa được xóa án tích, bị cáo đã nhiều lần phạm tội nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian, nhằm trừng trị, cải tạo, giáo dục để bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội và biết tôn trọng pháp luật.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng cho bị cáo, để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch, nên không có căn cứ để xử lý.

[4]. Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 0,8147 gam ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định.

[5]. Về án phí: Bị cáo Phạm Tấn C phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tấn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Tấn C 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 17 tháng 10 tháng 2022.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,8147 gam ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định.

(Đặc điểm vật chứng được lưu tại hồ sơ vụ án).

Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Tấn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2023/HS-ST

Số hiệu:12/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Súp - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;