Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 12/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 11/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 11 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HS ngày 28/01/2022, đối với các bị cáo:

1. Phạm Ngọc H, sinh ngày 25/7/1967, tại Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Tổ dân phố 16, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Phạm Văn C và bà Dương Thị S (đều đã chết); có vợ là Phạm Hồng H1 và 02 con (con lớn sinh năm 1987, con nhỏ sinh năm 1989); tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 16/4/1994 Công an huyện N, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính (Cảnh cáo) về hành vi Tổ chức sử dụng chất ma túy; ngày 04/7/2001 Công an phường M, thị xã T, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính (Phạt tiền 100.000 đồng) về hành vi gây mất trật tự ở khu dân cư; ngày 15/8/2005 Công an phường T1, thị xã T, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính (Phạt tiền 125.000 đồng) về hành vi Đánh nhau; ngày 19/11/2018 Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính (Cảnh cáo) về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

2. Đỗ Văn Ph, sinh ngày 13/10/1961, tại Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Tổ dân phố 16, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đỗ Viết Q và bà Trần Thị D (đều đã chết); có vợ là Đặng Thị D1 (đã chết) và 02 con (con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2004); tiÒn án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 01/11/1986, Công an thị xã T, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính (Cảnh cáo) về hành vi đánh nhau gây rối trật tự.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 26/8/2021, bị cáo Đỗ Văn Ph điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Landal Taiwan chở bị cáo Phạm Ngọc H từ xóm 8, xã Tr, thành phố T về nhà. Khi đi đến khu vực cầu N, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo H rủ bị cáo Ph góp mỗi người 100.000 đồng để mua Heroine về cùng nhau sử dụng, bị cáo Ph đồng ý và đưa cho bị cáo H 100.000 đồng. Bị cáo H bảo bị cáo Ph điều khiển xe mô tô chở bị cáo H đến khu vực gần nhà hàng T thuộc tổ dân phố 15, phường Ph, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang để tìm mua Heroine. Tại đây, bị cáo H bảo bị cáo Ph ngồi chờ ở xe mô tô còn bị cáo H đi bộ đến gặp và nhờ một người đàn ông tên L (không xác định được tên đệm, địa chỉ) mua hộ ma túy; người đàn ông đồng ý; bị cáo H đưa người đàn ông 200.000 đồng, người đàn ông cầm tiền bảo bị cáo H đứng đợi. Một lúc sau, một người phụ nữ tên H1 (không xác định được tên đệm, địa chỉ) đi xe đạp điện đến đưa cho bị cáo H 02 gói Heroine được bọc ngoài bằng nilon màu xanh hàn kín, bên trong là lớp giấy bạc màu vàng, trong cùng là chất Heroine màu trắng; bị cáo H cầm 02 gói Heroine ở tay trái quay lại ngồi sau xe do bị cáo Ph điều khiển, cùng đi tìm chỗ vắng người để sử dụng ma túy. Khi bị cáo H và bị cáo Ph đi đến khu vực tổ dân phố 16, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang thì bị Tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Tuyên Quang kiểm tra phát hiện, do hoảng sợ nên bị cáo H đã thả 02 gói Heroine vừa mua được xuống yên xe và dưới đất gần xe của bị cáo Ph. Tổ công tác đã lập biên bản xác minh nguồn tin về tội phạm hồi 13 giờ 15 phút cùng ngày, thu giữ 02 gói Heroine của bị cáo H và bị cáo Ph.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo H, bị cáo Ph, kết quả đều (+) dương tính (bị cáo H và bị cáo Ph khai nhận ngày 25/8/2021 đã cùng nhau sử dụng ma túy) Tại Kết luận giám định số 787/GĐKTHS ngày 30/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Phạm Ngọc H, Đỗ Văn Ph) gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,152g (không phẩy một năm hai gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKSTP ngày 05/01/ 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Phạm Ngọc H và bị cáo Đỗ Văn Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo Phạm Ngọc H, Đỗ Văn Ph theo nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc H và bị cáo Đỗ Văn Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s,t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Ngọc H từ 01 năm 01 tháng tù đến 01 năm 04 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Văn Ph từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tù Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo; tịch thu tiêu huỷ số Heroine còn lại đã thu giữ của các bị cáo; tuyên quyền kháng cáo và buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, các bị cáo tiếp tục khai nhận tội, nội dung khai báo của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 787/GĐKTHS ngày 30/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; các bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo Phạm Ngọc H, Đỗ Văn Ph nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất. Riêng bị cáo Đỗ Văn Ph đề nghị cho được hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc con gái (sinh năm 2004).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố, do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Ngọc H, Đỗ Văn Ph tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản xác minh nguồn tội phạm; vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 15 phút ngày 26/8/2021 tại khu vực tổ dân phố 16, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, các bị cáo Phạm Ngọc H, Đỗ Văn Ph đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,152 (không phẩy một năm hai) gam Heroine, mục đích để sử dụng.

Các bị cáo Phạm Ngọc H, Đỗ Văn Ph đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; hành vi của các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; số Heroine mà các bị cáo cất giữ trái phép có khối lượng dưới 05 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Phạm Ngọc H có bố đẻ là ông Phạm Văn C được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì; trong quá trình điều tra đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra phát hiện tội phạm (theo văn bản số 28/CATP ngày 08/01/2022 của Công an thành phố Tuyên Quang) nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 và khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố T, do vậy cần buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung; không có căn cứ cho bị cáo Đỗ Văn Ph được hưởng án treo như đề nghị của bị cáo.

Trong vụ án này các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, không có tổ chức, trong đó bị cáo Phạm Ngọc H là người chủ động rủ bị cáo Đỗ Văn Ph góp tiền mua ma túy và trực tiếp tìm người mua ma túy nên được xác định là người có vai trò cao hơn bị cáo Đỗ Văn Ph.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo; khối lượng Heroine mà các bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo đều là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với các bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của các bị cáo Phạm Ngọc H và Đỗ Văn Ph, Công an thành phố Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền mỗi người 750.000 đồng); đối với người đàn ông tên L và người phụ nữ tên H1 theo bị cáo H khai nhận là người bán Heroine cho bị cáo H tại khu vực tổ dân phố 15, phường Ph, thành phố T nhưng không xác định được tên tuổi đầy đủ, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Đối với số Heroine còn lại (sau khi giám định) đã thu giữ của các bị cáo được niêm phong trong 01 phong bì, là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Các bị cáo Phạm Ngọc H, Đỗ Văn Ph phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự (thêm điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phạm Ngọc H):

Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc H và bị cáo Đỗ Văn Ph phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn Ph 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, dán kín có chữ ký của Đỗ Văn Ph, Phạm Ngọc H và giám định viên cùng 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa 0,102 (không phẩy một không hai) gam Heroine.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 11/01 /2022.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Các bị cáo Phạm Ngọc H, Đỗ Văn Ph mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Các bị cáo Phạm Ngọc H, Đỗ Văn Ph được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;