TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 12/2021/HS-ST NGÀY 06/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 06 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở TAND huyện Mường Ảng mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 14/2021/TLST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST-HS, ngày 25/11/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Tòng Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1979, nơi sinh: huyện M, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản M, xã X, huyện M, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 4/12; Bố đẻ: Tòng Văn Y, sinh năm 1944 và mẹ đẻ Tòng Thị Đ, sinh năm 1945; Gia đình bị cáo có 09 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình; Bị cáo có vợ là Tòng Thị P sinh năm 1982 và có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Đã bị kết án: Năm 2015 bị cáo bị phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 49/2015/HSST, ngày 28/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng, ngày 20/5/2017 bị cáo chấp hành xong án phạt tù, đã được xóa án tích; chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/9/2021 cho đến ngày xét xử sơ thẩm. Bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, bị cáo Tòng Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Để có ma túy sử dụng, khoảng 15 giờ 30 phút ngày 01/9/2021 Tòng Văn T đi đến bản Pá Nặm, xã Mường Lạn, huyện M gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Mông, không quen biêt 01 gói Heroine được gói bằng mảnh túi nilon màu hồng với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đông), rồi mang về nhà. Đến hồi 18 giờ 15 phút cùng ngày T đang ngồi ở bang uống nước tại nhà ở của mình thuộc Bản M, xã X, huyện M thì có tổ công tác Công an xã Xuân Lao đến kiểm tra, qua vận động T đã tự giác lấy 01 gói Heroine có khối lượng 0,57 gam ở trong túi quần bên phải đang mặc ra giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng để xác minh làm rõ.
Theo biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 02/9/2021 của Công an huyện Mường Ảng và Kết luận giám định số 1052/GĐ-PC09, ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:
- Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Tòng Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.
- Khối lượng vật chứng thu giữ của Tòng Văn T : 0,57 gam chất bột màu trắng.
- Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 09, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.
Tại bản cáo trạng số: 94/CT-VKSMA ngày 15/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mường Ảng để xét xử bị cáo Tòng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo T. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xử phạt Tòng Văn T từ 13 đến 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
* Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu để tiêu hủy: 0,52 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.
* Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.
Bị cáo T thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng truy tố. Bị cáo nhất trí nội dung bản Cáo trạng, bản luận tội của VKSND huyện Mường Ảng, bị cáo không có tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng trước khi nghị án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Nội dung vụ án:
Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa bị cáo Tòng Văn T đã khai và công nhận: Hồi 18 giờ 15 phút ngày 01/9/2021 tại nhà ở của mình thuộc Bản M, xã X, huyện M, tỉnh Điện Biên bị cáo bị bắt vì đang tàng trữ trái phép 0,57 gam Heroine, mục đích của bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo trước phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như cáo trạng số 94/CT-VKS-MA, ngày 15/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; Bị cáo tàng trữ trái phép 0,57 gam Heroine đủ định lượng buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý để xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
…c) Heroine,…Methamphetamine …, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam".
[2] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 5 năm tù, được quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra.
[3] Xét về hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra: Hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, đã tiếp tay cho các loại tội phạm gia tăng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, cần phải được xử lý nghiêm.
[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được bố mẹ sinh ra và lớn lên tại huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên, bị cáo học hết lớp 4 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Năm 2001 kết hôn với chị Tòng Thị P và có 03 người con chung. Năm 2015 bị cáo bị phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 49/2015/HSST, ngày 28/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng, ngày 20/5/2017 bị cáo chấp hành xong án phạt tù, đã được xóa án tích. Bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ, mua bán ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo vẫn cố ý mua và tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo; tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, khi tổ công tác Công an xã Xuân Lao, huyện Mường Ảng giải thích, thuyết phục bị cáo đã tự nguyện giao nộp ma túy cho tổ công tác, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015 cho bị cáo. Bị cáo không phạm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của BLHS năm 2015.
Bị cáo với nghề nghiệp làm ruộng, ngoài ra không có thu nhập nào khác, gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Đối với người đàn ông dân tộc Mông, người mà Tòng Văn T khai đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên tuổi và địa chỉ ở đâu, Cơ quan CSĐT không có đủ cơ sở xác minh làm rõ.
[6] Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Hội đồng xét xử: Tịch thu để tiêu hủy: 0,52 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.
[7] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.
[8] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[9] Quyết định truy tố của VKSND huyện Mường Ảng; ý kiến của vị đại diện VKS, ý kiến của bị cáo, qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử thấy phù hợp với nội dung vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[10] Trong quá trình điều tra, truy tố: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Tòng Văn T 01 (một) 01 (một) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 01/9/2021).
2. Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu để tiêu hủy 0,52 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định. (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Ảng và Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng lập ngày 15/11/2021).
3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.
4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2021/HS-ST
Số hiệu: | 12/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về